28/11/2024

Giới thiệu Giáo hội và đất nước Bangladesh

Trong 2 ngày mồng 1 và mồng 2 tháng 12 tới đây, sau khi công du Myanmar, ĐTC Phanxicô sẽ viếng thăm Bangladesh. Nhân dip này chúng tôi xin giới thiệu cùng quý vị vài nét về Giáo hội và đất nước Bangladesh.

 Giới thiệu Giáo hội và đất nước Bangladesh

 

 
Trong 2 ngày mồng 1 và mồng 2 tháng 12 tới đây, sau khi công du Myanmar, ĐTC Phanxicô sẽ viếng thăm Bangladesh. Nhân dip này chúng tôi xin giới thiệu cùng quý vị vài nét về Giáo hội và đất nước Bangladesh.

Cộng hoà Nhân dân Bangladesh rộng 147.570 cây số vuông, có hơn 170 triệu dân, giáp giới với  Myanmar và quay ra vịnh Bengala. Trong tiếng Bengale, Bangladesh có nghĩa là Quê huơng của Bengala. Ranh giới hiện nay của Bangladesh bắt nguồn từ việc phân chia năm 1947 khi vùng này trở thành phần phía đông của nước Pakistan mới thành lập, bị chia cách với phần còn lại bởi 1.600 cây số ngang qua Ấn Độ. Các kỳ thị ngôn ngữ, chính trị và kinh tế khiến cho Bangladesh luôn ở trong tình trạng dân chúng giao động chống lại Tây Pakistan dẫn đưa tới chiến tranh giành độc lập năm 1971 và việc thành lập nước Bangladesh. Tuy nhiên, quốc gia mới này đã phải gánh chịu các thiên tai và hạn hán mất mùa đói kém và cảnh nghèo túng triền miên, cũng như các giao động chính trị và các cuộc đảo chánh của quân đội. Việc tái lập nền dân chủ năm 1991 đã là kết quả của một sự ổn định tương đối và tiến bộ kinh tế.

Bangladesh là một trong các quốc gia có mật độ dân số đông nhất thế giới và có cũng là nước có nhiều người nghèo nhất. Trên bình diện địa lý, Bangladesh nằm trong vùng đồng bằng lưu vực sông Gange và sông Brahmaputra, nhưng hằng năm cũng là nạn nhân của lụt lội và bão táp. Là thành viên của tổ chức Khối Thịnh Vượng Chung, từ năm 2005 Bangladesh đã đạt được các tiến triển đáng kể trên bình diện phát triển nhân bản, xoá bỏ nạn mù chữ, thăng tiến giáo dục và giảm nạn gia tăng dân số.

Các dấu tích của các nền văn minh cổ xưa cho biết lịch sử vùng Bengala đã có từ 4.000 năm trước, khi vùng này do các dân tộc Dravidic, Tibeto-birmane và Austro-asiatico sinh sống. Gốc gác tên gọi Bangla hay Bengala có lẽ phát xuất từ chữ “Bang” là bộ lạc nói tiếng Dravidic đến định cư trong vùng này vào năm 1.000 trước công nguyên.

Sau khi người Indo Ariani đến Bangladesh, Vương quốc Gangaridai được thành hình vào thế kỷ thứ VII trước công nguyên. Tiếp đến nó bị sát nhập vào Vương quốc Magadha, rồi vào Đế quốc Maurya, và từ thế kỷ III tới VI sau công nguyên trở thành phần của Đế quốc Gupta. Sau khi đế quốc Gupta sụp đổ, ông Shashanka thành lập vương quốc mới và được coi là cha đẻ của nền độc lập Bangladesh. Sau một thời gian vô chính phủ triều đại Pala cai trị vùng này trong 4 thế kỷ liên tiếp. Sau đó là triều đại Ấn Sena. Vào thế kỷ XII, Hồi giáo được du nhập vào Bangladesh và lan tràn trong toàn vùng. Tướng Thổ Nhĩ Kỳ là Bakhtiar Khiji chiến thắng Lakshman Sen của triều đại Sena và chiếm cứ phần lớn Bangladesh. Vùng này bị các Sultan Hồi và các quan phong kiến cai trị trong 100 năm. Vào thế kỷ XVI, Đế quốc Moghul thống trị Bengala và Dakhca trở thành trung tâm thương mại quan trọng của đế quốc.

** Các thương gia âu châu đặt chân lên Bangladesh vào cuối thế kỷ XV và gia tăng thanh thế, khi Công ty Anh Đông Ấn Độ kiểm soát Bengala sau trận chiến năm 1757. Cuộc nổi loạn đẫm máu năm 1857 khiến cho quyền bính được giao cho phó vương người Anh. Dưới thời thuộc địa của Anh quốc đã xảy ra nhiều thiên tai hạn hán mất mùa, bao gồm cả nạn hạn hán năm 1943 khiến cho hơn 3 triệu người phải đói khát.

Giữa các năm 1905-1911, nỗ lực tách rời Bengala thành 2 vùng bị thất bại. Khi Ấn Độ bị chia cắt năm 1947 vùng Bengala bị chia đôi bởi một ranh giới tôn giáo với phía tây có dân theo Ấn giáo nằm dưới quyền cai trị của Ấn Độ, và phiá đông có dân theo Hồi giáo bị sát nhập vào Pakistan như là một tỉnh và được gọi là Đông Bengala. Việc tách rời này đã làm nảy sinh ra các cuộc xuất hành đông đảo và quan trọng nhất trong lịch sử. Hàng triệu người theo Ấn giáo rời bỏ vùng Đông Pakistan, trong khi hàng triệu người theo Hồi giáo lại tìm về sinh sống tại đây. Cuộc di cư vĩ đại này đã là lý do của cuộc khủng hoảng nhà ở và lương thực kéo dài 30 năm trời. Các chính quyền sau đó đã cố gắng giải quyết vấn đề, nhưng đã không bao giờ thành công, và trong vài trường hợp nó đã làm nảy sinh ra các phong trào chính trị, xã hội kinh tế và chủng tộc.

Năm 1950 đã có cuộc cải cách huỷ bỏ chế độ phong kiến Zamidari. Mặc dù sức nặng kinh tế và dân số ở phiá Đông nhưng quyền bính chính trị và quân sự lại nằm trong tay các tầng lớp sống ở phiá Tây. Năm 1952, phong trào tiếng nói Bengale ghi dấu một khúc quanh mới và khai sinh ra Liên minh Nhân dân Bengale. Trong thập niên 1960, phong trào nay đòi độc lập, và năm 1966, Tổng thống Sheik Mujibur Rahman bị cầm tù và rời bỏ quyền bính sau vụ nổi loạn của dân chúng năm 1969. Năm 1970, một trận bão lớn tàn phá vùng duyên hải Đông Pakistan, nhưng chính quyền trung ương phản ứng rất kém khiến cho dân chúng giận dữ, và Sheikh Mujibur Rahman tuy đã thắng cử năm 1970 nhưng không thể lên nắm quyền. Tháng 3 năm 1971, Tổng thống Yahya Khan bắt giữ ông Mujibur và phát động cuộc hành quân “Tìm ánh sáng xua quân đánh vùng Đông Pakistan”. Chiến tranh bạo lực đã khiến cho rất nhiều thường dân bị thiệt mạng và làm cho 10 triệu người phải đi lánh nạn bên Ấn Độ. Đã không có thống kê chính xác nhưng người ta ước tính có từ 300.000 tới 3 triệu người chết. Đa số hàng lãnh đạo đảng Liên minh Nhân dân Bengale hay Awami trốn sang Ấn Độ, và thành lập chính phủ lưu vong tại Calcutta. Chiến tranh giải phóng Bangladesh kéo dài 9 tháng, và cuối cùng nhận được sự trợ giúp của quân đội Ấn. Quân Ấn chiến thắng quân Pakistan vào tháng 12 năm 1971 và bắt giữ 90.000 tù binh chiến tranh. Sau khi được độc lập Bangladesh trở thành một nước dân chủ và Đảng Liên minh Awami chiếm đa số tuyệt đối trong Quốc hội với ông Mujib làm thủ tướng.

Trong các năm 1973-1974 và đầu năm 1975, Bangladesh bị hạn hán mất mùa trầm trọng. Ngày 15 tháng 8 năm 1975, Thủ tướng Mujib và gia đình bị các tướng lãnh ám sát. Sau nhiều cuộc đảo chính, tướng Ziaur Rahman, người thành lập Đảng Quốc gia Bangladesh, lên nắm quyền và cai trị cho tới khi ông bị ám sát năm 1981. Sau một cuộc đảo chánh đẫm máu tướng Hossein Mohammad Ershad lên nắm quyền từ năm 1982 tới 1990, và bị bó buộc từ chức sau khi chế độ cộng sản sụp đổ. Kể từ đó Bangladesh lại có chính quyền dân chủ. Bà Khaleda Zia, vợ của tướng Ziaur, đưa đảng của chồng tới chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 1991 và trở thành nữ thủ tướng đầu tiên trong lịch sử Bangladesh. Nhưng Đảng Quốc gia Bangladesh do Sheikh Hasina, một trong những con gái còn sống sót của tướng Mujib, lãnh đạo thắng cử năm 1996 nhưng mất quyền năm 2001.

Năm 2007, tiếp theo nạn bạo lực lan tràn, một chính quyền mới được thành lập với mục đích nhổ tận gốc rễ nạn gian tham hối lộ và các hỗn loạn chính trị.

** Đa số dân Bangladesh nói tiếng Bengale là một ngôn ngữ Indoeuropeo thuộc gia đình Indoiraniano của nhóm Indoario nam Á châu, và đã tiến triển như là dòng dõi tiếng Phạn Sanscrito, tiếng Pali và các thứ tiếng Pracrite. Ngoài ra người dân còn nói nhiều thứ tiếng khác như: Chakma, Assamese, Tippera, Hajong, Atong, Rakhine, Mizo và Marma.

Trên bình diện tôn giáo, 90,4% tổng số dân theo Hồi giáo, 8,2% theo Ấn giáo, 0,7% theo Phật giáo đa số là Tiểu Thừa, 0,6% theo Kitô giáo đa số theo Công giáo, và 0,1% theo các tôn giáo khác, trong đó có đạo thờ vật linh.

Đa số tín hữu Hồi theo hệ phái Sunnít, nhưng cũng có một nhóm theo hệ phái Sciít và một nhóm theo hệ phái Ahmadiyya. Đa số tín hữu Sciít sống trong các thành phố. Cả khi chính quyền Bangladesh chọn ý thức hệ quốc gia đời, Hiến pháp vẫn coi Hồi giáo là quốc giáo. Tuy hiến pháp khẳng định quyền tự do tôn giáo, mỗi công dân được tự do lựa chọn và thực hành niềm tin của mình, nhưng trên thực tế các cộng đoàn tôn giáo thiểu số khác như Kitô, Phật giáo và Hồi giáo ahmadiyya vẫn bị ít nhiều kỳ thị. Giữa các năm 2001-2006, chính quyền liên hiệp bao gồm 4 đảng phái chính trị – Đảng Quốc gia Bangladesh, Đảng Jamat-e-Islami Bangladesh, Đảng Islami Oilya Jote và Đảng Jatiyo Bangladesh – đã ra lệnh cấm phổ biến các tác phẩm văn chương Ahmadi. Các quyền gia đình liên quan tới ly dị, nhận con nuôi… thay đổi tuỳ theo tôn giáo. Nhưng không có luật cưỡng bách hôn nhân giữa các thành phần thuộc các tôn giáo khác nhau.

Kitô giáo đã đến Bangladesh giữa cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII qua các thương gia Bồ Đào Nha và các thừa sai. Các linh mục thừa sai thuộc Hội Truyền giáo Nước ngoài Milano đã đến rao giảng Tin Mừng tại Bangladesh năm 1855. Giáo hội Công giáo Bangladesh gồm 2 cộng đoàn chính: một cộng đoàn gồm con cháu các Kitô hữu đầu tiên, hoa trái công việc truyền giáo của các thừa sai Bồ Đào Nha trong 2 thế kỷ XVI-XVII; một cộng đoàn khác chiếm đa số gồm các thổ dân từ đạo thờ vật linh theo Kitô giáo, bao gồm các chủng tộc Oraon, Garo và Santhal.

Hiện nay số tín hữu Kitô chiếm 0,6% tổng số dân, đa số theo Công giáo và có một số nhỏ theo Tin Lành. Giáo hội Công giáo có khoảng 300.000 giáo dân sống trong 2 tổng giáo phận và 6 giáo phận. Giáo tỉnh Dacca bao gồm Tổng Giáo phận Dacca và 4 giáo phận Dinajpur, Mymensingh, Rajshahi và Sylhet, trong khi giáo tỉnh Chittagong bao gồm Tổng Giáo phận Chittagong và 2 Giáo phận Barisal và Khulna. Ngoài các giám mục của 8 giáo phận nhân lực của Giáo hội gồm khoảng 250 linh mục, hơn 1.000 nữ tu, hơn 400 chủng sinh và 1.500 giáo lý viên. Công tác rao truyền Tin Mừng được dễ dàng hơn sau khi HĐGM cho in bản dịch Thánh Kinh năm 1999 bằng tiếng Bengali là ngôn ngữ của 98% dân chúng. Năm 2000, các giám mục cũng cho in sách Giáo lý Giáo hội Công giáo bằng tiếng Bengali.

** Từ năm 2011, ĐHY Patrick D’Rozario là Chủ tịch HĐGM Bangladesh. Từ năm 1973 tới 1992, Bangladesh chỉ có Đức Khâm sứ. Nhưng sau đó chính quyền Bangladeh và Toà Thánh đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao trên bình diện Toà Đại sứ và Sứ thần Toà Thánh. Từ năm 2013, Đức Sứ thần Toà Thánh là Đức TGM George Kochery.

Vì Bangladesh là một trong 49 nước nghèo nhất thế giới theo danh ách của Liên Hiệp Quốc, nên Giáo Hội tập trung mọi công tác mục vụ vào các lĩnh vực thăng tiến giáo dục, y tế và an sinh cho dân. Hiện nay Giáo Hội điều khiển hơn 550 trường học: từ mẫu giáo cho tới trung học và đại học. Giáo Hội cũng điều hành 360 cơ sở y tế và bác ái xã hội, gồm các nhà thương, các bệnh xá, các trạm phát thuốc, các trung tâm mồ côi và nhà cho người tàn tật. Sự kiện 70% dân không được học hành và đa số dân là người trẻ khiến cho Giáo Hội tập trung nỗ lực vào công việc thăng tiến giáo dục và củng cố mục vụ cho giới trẻ và dấn thân rao truyền Tin Mừng. Các cơ sở giáo dục của Giáo Hội tiếp nhận tới 80% học sinh sinh viên không Công giáo. Qua đó người trẻ Hồi giáo, Phật giáo và Ấn giáo cũng học biết Chúa Kitô.

Tại Bangladesh, các tương quan của Giáo hội Công giáo với Hồi giáo rất tốt. Cuộc đối thoại liên tôn không gặp khó khăn như tại nhiều quốc gia khác, vì các liên lạc giữa giới lãnh đạo các tôn giáo và các tín hữu với nhau rất hài hoà và khoan nhượng. Một đàng chính quyền Bangladesh là chính quyền đời, đàng khác Hồi giáo Bangladesh hoà hoãn và có tinh thần tu đức cao. Thách đố chính của Giáo Hội là việc hội nhập Tin Mừng vào nền văn hoá. Vì cho tới nay Kitô giáo vẫn bị coi là tôn giáo ngoại lai. Cộng đoàn công giáo trẻ tuổi, và đức tin và truyền thống Kitô chưa được đâm rễ sâu trong cuộc sống tín hữu. Trong số các khó khăn, Giáo Hội vẫn còn gặp phải có sự kiện các thừa sai không được cấp giấy phép vào Bangladesh dễ dàng vì vẫn bị nghi ngờ. Bên cạnh đó là sự lan tràn của các giáo phái giả Kitô, khiến cho chính quyền có các thái độ thù nghịch với Kitô giáo. Sự kiện hàng giáo sĩ tu sĩ và giáo dân phải dấn thân nhiều trong các sinh hoạt thăng tiến cuộc sống cho dân nghèo cũng ngăn cản phần nào việc lôi cuốn họ vào các chương trình đào tạo thiêng liêng.

Trong số các nỗ lực, Giáo Hội cần thực hiện có việc đào tạo tôn giáo cho anh chị em giáo dân và lôi cuốn họ dấn thân trong các công tác tông đồ, để họ nỗ lực rao giảng Tin Mừng, và có thể đảm trách nhiều nhiệm vụ hơn trong mọi sinh hoạt của Giáo Hội.

 
 

Linh Tiến Khải