01/11/2024

Tình cảm và tính dục trong đời sống và sứ vụ linh mục ngày nay

Chúng tôi trân trọng giới thiệu với các bạn độc giả tập tài liệu rất cần thiết và hữu ích của Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, PSS, trong dịp thường huấn cho linh mục đoàn của giáo phận Xuân Lộc vừa qua.Đó là về vấn đề “Tình cảm và tính dục trong đời sống và sứ vụ linh mục ngày nay”. Xin chân thành cảm ơn Cha giảng thuyết và Văn phòng Toà Giám mục Giáo phận Xuân Lộc.

Micae-Phaolô Trần Minh Huy, PSS 

TÌNH CẢM VÀ TÍNH DỤC     

TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ      

LINH MỤC NGÀY NAY

  

Thường Huấn Linh Mục Đoàn     

Xuân Lộc ngày 2-3/5/2017


 

MỤC LỤC

VÀO ĐỀ

 

Một

TỪ MỘT HIỆN TƯỢNG TIÊU CỰC  KHÔNG MONG ĐỢI: NẠN GIÁO SĨ LẠM DỤNG VÀ VI PHẠM TÌNH DỤC CÙNG CÁC GIẢI PHÁP

I. Nạn Giáo Sĩ Lạm Dụng Tình Dục Trẻ Em.. 8

II. Các Biện Pháp Giải Quyết 10

   1. Tự bản thân linh mục giải quyết 10

   2. Các biện pháp của Giáo Hội 14

       a) Đối với giáo sĩ lạm dụng. 14

       b) Sự tấn công quá khích và bất công của thế gian. 18

       c) Lập trường quyết liệt hơn của Giáo Hội 19

       d) ĐTC không chấp nhận giải pháp tốt của một thời 20

       e) Đối với các Giám Mục bao che kẻ lạm dụng. 23

       f) Nỗ lực ngăn chặn không cho tái diễn nữa. 27

       g) Một thực tế lớn hơn: Nạn giáo sĩ vi phạm tình dục. 29

III. Kết luận. 32

 

Hai

XEM ĐẾN NHỮNG BIỂU HIỆN TÌNH CẢM                      VÀ TÌNH DỤC TỰ NHIÊN CỦA CON NGƯỜI

I. NHỮNG CÁCH THẾ CON NGƯỜI BỘC LỘ TÌNH CẢM VÀ TÍNH DỤC   36

   1. Căn nguyên của vấn đề. 36

   2. Tính Dục và Khoái Cảm.. 40

   3. Những bộc lộ của xúc cảm tính dục. 44

II. TÌNH BẠN KHÁC PHÁI CỦA LINH MỤC.. 46

   1. Nhận định và đặt vấn đề. 46

   2. Tương quan với người nữ. 49

       a. Với người nữ nói chung: Trợ Lực hay là Vấn Đề?…….. 49

       b. Tương quan với nữ tu: cần khôn ngoan và tỉnh thức. 51

       c. Tương quan với bạn khác phái đời thường:. 54

       d. Đối với các góa phụ. 56

       e. Sự hấp dẫn tính dục. 57

       f. Cạm bẫy mỹ nhân kế. 57

   3. Các giải pháp ứng xử tốt đẹp. 57

       a. Tương quan với mẹ và chị em ruột của mình. 57

       b. Coi Cụ Bà như mẹ và thiếu nữ như chị em.. 58

       c. Theo cách ứng xử và mối tương quan hài hoà của Chúa Giêsu đối với phụ nữ  60

III. NĂM ĐỊNH LUẬT TÂM SINH LÝ                                       KHÁC BIỆT NAM NỮ   63

   1. Luật Ưu Tiên. 63

   2. Luật Phân Cách. 64

   3. Luật Thính Giác. 65

   4. Luật Chi Tiết 66

   5. Luật Bất Đồng Cảm.. 67

 

Ba

VÀ NHỮNG GẬP GHỀNH TÌNH CẢM                                                   & TÌNH DỤC CỦA GIỚI NHÀ TU

I. NHỮNG GẬP GHỀNH TÌNH CẢM TRONG BA GIAI ĐOẠN CUỘC ĐỜI ƠN GỌI 69

   1. Trước khi vào Dòng/Chủng Viện. 69

   2. Khi đã vào Dòng/Chủng Viện. 72

   3. Trong suốt dòng đời sống sứ vụ. 77

   4. Cách ứng xử cần thiết và thích hợp: Chia tay. 81

II. LINH MỤC CŨNG LÀ CON NGƯỜI 83

   1. Nhu cầu tình yêu. 83

   2. Nhu cầu thân mật 85

   3. Các loại thân mật của linh mục. 87

       a. Thân mật không dành riêng……………………….87

       b. Thân mật không sở hữu. 87

       c. Thân mật có chọn lựa. 88

       d. Khoảng cách và sự riêng tư. 88

       e. Độc lập trong thân mật 88

       f. Đụng chạm và thân mật 88

       g. Đối đầu trong thân mật 89

       h. Cởi mở trong thân mật 89

       i. Trung thành với ơn gọi 89

   4. Nhu cầu hạnh phúc. 90

III. SỰ TRƯỞNG THÀNH TÌNH CẢM93

   1. Trưởng thành tình cảm là gì?. 93

   2. Những biểu hiện của người thiếu trưởng thành. 93

   3. Tiến đến sự Trưởng Thành Tình Cảm.. 94

       a. Bốn đường lối bảo vệ chính mình. 94

       b. Tiêu chuẩn đánh giá sự trưởng thành. 95

       c. Các chuẩn mực của người trưởng thành. 96

 

Bốn

ĐỂ TÌM LẠI CON ĐƯỜNG SỐNG TỐT                       ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ LINH MỤC

I. Linh Mục Tự Do Tự Nguyện Sống Luật Độc Thân. 101

II. Vượt Lên Khủng Hoảng Để Xây Dựng Tình Huynh Đệ Bí Tích Đích Thực  113

III. Tìm Chúa Hơn Là Công Việc Của Chúa. 122

   1. Sống kinh nghiệm về Chính Chúa. 122

   2. Sống sứ vụ tông đồ: Công Việc Của Chúa. 125

   3. Điều hợp giữa Chúa và Công Việc Của Chúa. 128

   4. Quy chiếu về Chúa Giêsu. 130

KẾT LUẬN CHUNG.. 133


VÀO ĐỀ

 

Trọng kính Đức Cha,

Kính thưa Cha Tổng Đại Diện, Quý Cha Hạt Trưởng, Cha Giám Đốc ĐCV. và Quý Cha Giáo, Quý Cha Cố và Quý Cha,

Trong cuộc đời, có những cái khó tin, khó hiểu và khó nói nhưng có thật, nhất là đối với các cha lớn tuổi đạo đức thánh thiện, luôn sống nghiêm túc đời độc thân linh mục thanh khiết, đó là nạn lạm dụng và vi phạm tình dục của giới giáo sĩ mà Giáo Hội đang nỗ lực siết chặt kỷ luật, tìm kiếm các biện pháp sửa chữa, uốn nắn và thanh lọc một cách rốt ráo, và nặng nhất là tước bỏ mọi tước vị và buộc trở về tình trạng giáo dân.

Về vấn đề này, HĐGMVN dạy: “Cần phổ biến và học tập tài liệu của Giáo Hội liên quan đến vấn đề lạm dụng tình dục trẻ em trong các cơ sở của Giáo Hội như Chủng viện, Dòng tu, các trung tâm đào tạo, các trường công giáo, hầu nâng cao ý thức của mọi người về tác hại trầm trọng của tội phạm này và dứt khoát xa tránh. Việc học tập này thuộc chương trình thường huấn đối với các tân chức linh mục[1].

Vâng lời Đức Cha, lần này con xin trình bày đề tài Tình Cảm và Tính Dục trong Đời Sống và Sứ Vụ Linh Mục Ngày Nay với các tiểu mục sau đây:

1.    Từ một hiện tượng tiêu cực không mong đợi là nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục trẻ em;

2.    Xem đến những biểu hiện tình cảm và tính dục tự nhiên của con người;

3.         Và những gập ghềnh tình cảm và tính dục của giới nhà tu;

4.    Để tìm lại con đường sống tốt đời sống và sứ vụ linh mục của chúng ta.

Chúng ta sẽ bình tĩnh khi thấy những khoảng tối khiến Dân Chúa buồn lo và cảm thấy phải cầu nguyện nhiều hơn cho hàng giáo sĩ; nhưng đồng thời cũng nhìn lại những gì tốt đẹp nhất mà hàng giáo sĩ đã sống, đã thực hiện khiến mọi người cảm phục và biết ơn; để rồi cùng với ơn Chúa, chúng ta sẽ nỗ lực trở nên những linh mục đích thực là người của Thiên Chúa và là người cho mọi người như lòng Chúa và Giáo Hội mong ước. ĐTC Phanxicô mời gọi chúng ta có những “trải nghiệm đích thực về Giáo Hội bằng cách đoàn kết và nhìn lại quá khứ, ghi nhớ tình yêu và lòng thương xót của Chúa trong đời sống của chính mình, vì không có thánh nhân nào mà không có quá khứ, cũng như không có tội nhân nào mà không có tương lai[2].

Trước sự việc thế gian và truyền thông thế gian rất ồn ào náo động, khai thác quá nhiều và không công bằng các vụ giáo sĩ lạm dụng và vi phạm tình dục nhằm chống phá đạo Công giáo một cách có hệ thống và ác ý, chúng ta khiêm tốn nhìn nhận một phần sự thật, song tin tưởng dựa vào ơn Chúa và bình tĩnh, không sợ hãi, coi việc suy thoái này là một hiện tượng tiêu cực không mong đợi mà thôi. Hơn nữa, hiện tượng tiêu cực này chỉ xảy ra với một con số nhỏ 2%, so với một đại đa số 98% giáo sĩ có tâm huyết với Giáo Hội, hy sinh cả cuộc đời vì Chúa và vì tha nhân, đã hiến đời mình phục vụ hàng triệu trẻ em và những người bất hạnh ở khắp nơi trên thế giới, dành trọn đời mình trong các giáo xứ và cứ điểm truyền giáo, động viên mọi người sống tốt và thương mến tha nhân. Nhiều người trong số đông giáo sĩ ấy đã bị bách hại vì thù nghịch tôn giáo, bị sách nhiễu đánh đập vì bảo vệ công lý, tự do tôn giáo, nhân phẩm, quyền lợi và kế mưu sinh của dân chúng; bao nhiêu vị miệt mài sống hy sinh âm thầm khiêm tốn cả cuộc đời vì lợi ích của cộng đoàn mình phục vụ. Đúng là một cây ngã gây tiếng ồn nhiều hơn cả cánh rừng đang mọc lên và phát triển. Họ quá ồn ào vì một ít linh mục phạm lỗi lầm, mà im lặng trước hàng trăm ngàn linh mục tốt lành thánh thiện ngày đêm hiến trọn đời mình cho đoàn chiên. Nhấn mạnh một cách ác ý để tấn công và phá hoại hàng linh mục là một xúc phạm bất công.

Tuy nhiên để tránh chuyện “con sâu làm rầu nồi canh” đó, chúng ta hết lòng cảm thông chia sẻ nỗi đau của Giáo Hội, liên đới trách nhiệm chiến đấu cùng Giáo Hội để loại trừ tội ác, bảo vệ đoàn chiên và tránh cho chúng ta khỏi mắc phải, bằng cách cùng động viên nhau sống tốt bản chất đích thực đời sống và sứ vụ linh mục của chúng ta; nỗ lực giúp các anh em lầm lỗi đứng lên, theo lời thánh Giacôbê “nếu có người nào trong anh em lạc xa chân lý và có ai đưa người ấy trở về, thì anh em hãy biết rằng kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về thì cứu được linh hồn ấy khỏi chết và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình”[3], đồng thời chúng ta sẽ tích cực hợp tác với Giáo Phận và Chủng viện trong việc bảo vệ và đào tạo các đàn em linh mục tương lai của chúng ta.

 


Một

TỪ MỘT HIỆN TƯỢNG TIÊU CỰC KHÔNG MONG ĐỢI: NẠN GIÁO SĨ LẠM DỤNG VÀ VI PHẠM TÌNH DỤC CÙNG CÁC GIẢI PHÁP

Một nhận định tiên quyết theo ý nghĩa triết học, hiện tượng là cái thay đổi và qua đi, trong khi bản chất là cái bền vững không thay đổi. Chúng ta coi nạn giáo sĩ lạm dụng và vi phạm tình dục, dù hậu quả tai hại rất đáng buồn, vẫn chỉ là một hiện tượng tiêu cực, nghĩa là chúng ta tin tưởng với ơn Chúa, nó sẽ thay đổi và qua đi, đồng thời hàng giáo sĩ sẽ được thanh tẩy trở nên thánh thiện hơn, đáp ứng được lòng mong ước của Chúa, của Giáo Hội và của đàn chiên Chúa.

I. Nạn Giáo Sĩ Lạm Dụng Tình Dục Trẻ Em

Do tiến trình tăng trưởng tâm sinh lý và sự yếu đuối tự nhiên của con người bị tác động mạnh bởi môi trường tục hóa hưởng thụ vật chất và khoái lạc nhục dục, đời sống đạo đức của một số giáo sĩ xuống cấp trầm trọng đưa tới nạn lạm dụng tình dục trẻ em, nhất là tại các nước Âu-Mỹ; bên cạnh đó còn có nạn lén lút vi phạm tình dục với người lớn yếu thế, phụ nữ đời thường lẫn cả nữ tu và người có gia đình nữa, nhất là khi có sự can thiệp của dữ kiện tâm sinh lý hấp dẫn tính dục và những chất kích dục. Lạm dụng tình dục trẻ em không phải là căn bệnh của riêng giới độc thân, mà cả nơi những người đã lập gia đình, chung quanh gia đình, hàng xóm, trường học và các cơ cấu xã hội[4].

Nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục đã đưa đến tổn thất rất lớn về nhân sự cho Giáo Hội: Chỉ trong vòng 2 năm 2011-2012, ĐGH Biển Đức XVI đã sa thải gần 400 linh mục vì xâm hại tình dục trẻ em. Theo số liệu thống kê mới nhất, Giáo Hội Công Giáo có khoảng gần 416.000 linh mục trên toàn thế giới[5], trong đó khoảng 2% lạm dụng tình dục, tức 8320 người, một mất mát không nhỏ. Đáng buồn hơn là không chỉ một số linh mục vi phạm, kể cả có con cái nơi này nơi kia, mà cả một số ít Giám mục cũng mắc phải tệ nạn này nữa. Rõ rệt là Giám mục Gabino Zavala, Phụ tá TGP. Los Angeles, đã thú nhận có hai đứa con ở một tiểu bang khác buộc phải từ chức[6]; TGM. Milingo (Phi Châu) kết hôn với bà Maria Sung của giáo phái Moon[7]; HY. Michael Patrick O’Brien, Tô Cách Lan[8] v.v… và cao cấp hơn nữa là Khâm sứ Tòa Thánh tại Cộng Hòa Dominica, TGM. Josef Wesolowski.

Thánh Phaolô nhìn nhận thực tế và trấn an chúng ta: “Tất cả chúng tôi xưa kia cũng thuộc hạng người đó, khi chúng tôi buông theo các đam mê của tính xác thịt, thi hành những ước muốn của tính xác thịt và của trí khôn. Bẩm sinh chúng tôi là những kẻ đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa như những người khác. Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ”[9].


II. Các Biện Pháp Giải Quyết

1. Tự bản thân linh mục giải quyết

ĐTC Phanxicô đã nói: “Đừng sợ hãi, đừng lừa dối cuộc sống, mà chấp nhận đời sống thực tại như đang xẩy ra và tìm biện pháp giải quyết, phải đương đầu ngay và Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta. Hãy đến với Chúa Giêsu, Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta, cả những lúc khó khăn tăm tối nhất của đời sống. Chúng ta có thể lầm lẫn, nhưng Chúa mãi ở bên chúng ta và nhắc cho chúng ta hãy trở lại bước đi cho đúng đường”[10].

Vậy, chúng ta cầu nguyện rất nhiều cho mình và cho mọi linh mục trên khắp thế giới, đặc biệt cho các anh em lạm dụng hay có nguy cơ lạm dụng. Người Việt Nam tế nhị, kín đáo nên không ồn ào như ở các nước Tây Phương, chứ không phải là không có đâu, song đa số là vi phạm tình dục với người lớn, ở đời hay đi tu và có gia đình nữa, và vẫn được giữ im lặng! Nhưng nay do lập trường quyết liệt của Tòa Thánh và do truyền thông phóng đại mở đường, nhiều người đã mạnh dạn lên tiếng, gửi đơn thư tố cáo, khiếu kiện lên Đấng Bản Quyền và cả Tòa Thánh nữa.

Vậy cầu mong ai nhỡ yếu đuối sa ngã thì nên khiêm tốn cầu xin ơn mau mắn chỗi dậy, sống cao độ các chiều kích của Bí Tích Giải Tội, thành thật trình bày với Đấng Bản quyền, sám hối dứt khoát lật sang trang đời mới, đứt đuôi nòng nọc, đứng hẳn về phía Chúa và Giáo Hội, đặt Chúa ở trọng tâm và nơi cao nhất trong bậc thang các giá trị của đời mình, như thánh Phaolô dạy: “Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng”[11].

Hơn bao giờ cả, trong thời đại chúng ta đang sống, Quỷ Dâm Dục càng gia tăng hoạt động và người càng thuộc về Chúa, ma quỉ càng tấn công. quỉ cám dỗ thường hiện hình nơi phái nữ, mà kinh nghiệm cho hay người cám dỗ không bao giờ trung thành, và khi đã phản bội thì sẽ trở nên một thứ quỉ dữ hành hạ và làm khổ nạn nhân đủ cách[12]. Evà trao dâng trái táo thực vật mà Ađam đã sa ngã[13], các Evà thời đại đem trao những trái táo bằng xương bằng thịt hấp dẫn hơn thì lại càng nguy hiểm hơn cho chúng ta!

Ma quỉ không tấn công người nó đã nắm chắc thuộc về nó. Còn người chiến thắng thì nó thách thức và thách đấu tiếp tục như với thánh Gioan Maria Vianney: “Nếu chúng tao tìm được ba thằng như mày thì chúng tao mới chịu thua”. Tiếc là mới chỉ có một Vianney thôi nên chúng ta còn phải chiến đấu cam go với ma quỉ lắm, vì ngay cả với Chúa Giêsu, khi ma quỉ tìm đủ mọi cách cám dỗ không được, nó đành phải rút lui, chờ một cơ hội thuận tiện khác[14].

Vậy đừng chủ quan, chúng ta có thể thắng được một dịp chứ không dễ thắng mãi đâu, ma quỉ lại đi rủ thêm bảy quỉ khác còn hung dữ hơn trở lại tấn công. Nguy hiểm nhất là ma quỉ lưu manh gian dối luôn làm cho chúng ta tưởng lầm rằng không có nó luôn rình rập để đánh úp chúng ta. Thánh Giacôbê khuyên chúng ta: Anh em hãy phục tùng Thiên Chúa. Hãy chống lại ma quỷ; chúng sẽ chạy xa anh em. Hãy đến gần Thiên Chúa, Người sẽ đến gần anh em. Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhắc anh em lên”[15].

Kinh nghiệm cho hay khi gặp thử thách buồn phiền, cảm nhận cô đơn, thất vọng, chán nản là lúc dễ đâm liều mà sa ngã vào tình cảm phái tính nhất, vì bất cứ người đàn ông nào cũng khao khát sự dịu dàng nồng ấm, sự chiều chuộng yêu thương ngọt ngào nữ tính, và bất cứ người phụ nữ nào cũng mong ước một bờ vai vững chắc để nương tựa, một vòng tay mạnh mẽ để được ôm ấp che chở. Hãy cầu nguyện cho chúng ta ý thức bảo vệ mình và anh em, vì khi chúng ta thực sự yêu thương nâng đỡ nhau, thỏa mãn được nhu cầu yêu và được yêu, thì không một thứ tình cảm nào có thể chen vào làm hại chúng ta được.

Đối với anh em linh mục chúng ta, nhất là các vị có trách nhiệm và tầm ảnh hưởng lớn, thế gian không chỉ ghi nhận mọi sơ hở, mà còn gài bẫy để mặc cả, đặt điều kiện ép buộc có lợi cho họ, bất chấp thiệt hại cho Giáo Hội, cho các linh hồn và cho chính bản thân[16]. Vậy tin tưởng vào tình yêu tha thứ của Chúa “Ta không kết án con, hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa[17], nếu chẳng may vấp phải, chớ gì chúng ta khiêm tốn thành thật trở về với Chúa và trình bày với Bề trên, các ngài sẽ có cách giúp đỡ giải quyết, càng muốn che đậy giấu diếm càng bị kẹt vì phải chấp nhận hết điều kiện nọ đến điều kiện kia, luôn sống trong bất an và sợ hãi[18]. Nhưng ĐTC Phanxicô than phiền “có những linh mục thậm chí không nói chi với Giám Mục của mình”[19].

Chúng ta hãy dựa vào ơn Chúa, nỗ lực sống trong sáng và triệt để những đòi hỏi của đời độc thân khiết tịnh đã cam kết ngày bước lên chịu chức thánh. Đồng thời luôn nhớ thực hiện năm phương thế sống lành mạnh các mối tương quan khác phái: Nơi chốn gặp gỡ – Thời gian và thời lượng – Khoảng cách thể lý và tâm lý – Sự có mặt của những người thứ ba – Sống ý thức sự hiện diện khuất ẩn nhưng rất thực của Chúa[20]*.

Chuyện gì làm một mình thì có Chúa biết. Nhưng chuyện gì làm giữa hai người thì rồi ra người khác cũng sẽ biết. Có thể họ đã biết rồi nhưng vì nhân đạo, họ không nói hoặc chưa nói đó thôi, nhất là qua việc rao theo Giáo luật[21]. Và ngay chính người nữ ấy cũng sẽ không giữ kín mãi đâu. Nếu cả đôi bên đều cùng đi tu thì tới một lúc nào đó lương tâm thức tỉnh, bên nữ sẽ bộc bạch hết với người có trách nhiệm, dù có căn dặn “sống để dạ thác mang theo”. Và người có trách nhiệm ấy vì lương tâm và trách nhiệm, sẽ làm ra chuyện, nhất là khi mối tiêu cực vẫn cứ giấu diếm tiếp diễn gây thiệt hại lớn cho người của họ và cho Giáo hội[22].

Chúng ta đừng quên ba thứ tội tối kỵ kèm theo vạ tiền kết dành riêng cho Tòa Thánh: Lỗi ấn tòa giải tội, khuyến dâm trong tòa và giải tội cho đồng phạm giới răn thứ sáu. Nếu ai lỡ sa ngã thì đừng giải tội cho người đồng phạm, để khỏi nguy cơ tội chồng chất thêm tội phạm thánh, sống bất an suốt đời. Cám ơn ĐTC Phanxicô, dù Năm Thánh Lòng Thương Xót đã kết thúc, với tinh thần của Tông Thư Lòng Thương Xót và Người Khốn Khổ (Misericordia et Misera), vẫn duy trì 1.142 thừa tác viên của Lòng Thương Xót để cứu giúp những người lỡ lầm. Ngài viết: Tôi nhận được bao nhiêu chứng từ về niềm vui về cuộc gặp gỡ được đổi mới với Chúa trong bí tích giải tội. Chúng ta đừng đánh mất cơ hội sống đức tin kể cả như một kinh nghiệm về sự hòa giải.. Tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với mỗi thừa sai lòng thương xót vì việc phục vụ quí giá này để làm cho ơn tha thứ được hữu hiệu. Tuy nhiên, thừa tác vụ này không kết thúc với việc đóng cửa Năm Thánh. Tôi muốn sứ vụ ấy còn được tiếp tục cho đến khi tôi định liệu cách khác, như dấu chỉ cụ thể chứng tỏ ơn Năm Thánh được tiếp tục sinh động và hữu hiệu ở các nơi trên thé giới. Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng có nhiệm vụ theo dõi các Thừa sai lòng thương xót trong thời kỳ này, như một biểu lộ trực tiếp sự quan tâm và gần gũi của tôi, cũng như tìm ra những hình thức thích hợp nhất để thực thi sứ vụ quí giá này”.

2. Các biện pháp của Giáo Hội

a) Đối với giáo sĩ lạm dụng

Lập trường của ĐTC Biển Đức XVI ‘tuyệt đối không khoan nhượng’. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trước đó cũng đã nói: “Không có chỗ đứng trong hàng linh mục và trong đời tu trì cho những kẻ làm hại người trẻ… Cần phải giáo dục cho các ứng sinh linh mục và tu sĩ biết quí chuộng đức khiết tịnh và sự độc thân cũng như trách nhiệm làm cha tinh thần, và cần giúp họ đào sâu kiến thức về kỷ luật Giáo Hội liên quan đến những vấn đề này”.

Bộ Giáo Lý Đức Tin đã ra Thư Luân Lưu[23] yêu cầu tất cả các HĐGM toàn thế giới soạn thảo đường hướng chỉ đạo xử lý nghiêm khắc những vụ giáo sĩ lạm dụng tình dục và gửi về Bộ trước cuối tháng 5/2012, bao hàm việc áp đặt một hình phạt chung thân là rút khỏi bậc giáo sĩ. HĐGMVN đã mau mắn đáp ứng bằng văn kiện Những Nguyên Tắc Liên Quan Đến Tội Phạm Lạm Dụng Tình Dục Trẻ Vị Thành Niên Nơi Những Nhân Sự Thuộc Quyền Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, đề ngày 14/3/2012.

ĐTC Phanxicô khẳng định tiếp tục đường hướng ấy: không thể ở địa vị có quyền thế để rồi hủy hoại đời một người khác… phải lấy lại “bài sai”, không cho phép người đó thi hành chức linh mục nữa, và nên khởi sự một phiên tòa theo Giáo luật. Đó là việc phải làm ngay[24]. Ngài chấp nhận đề nghị của Hội Đồng Hồng Y và đã quyết định thành lập một ủy ban đặc biệt bảo vệ trẻ em.

HĐGM Mỹ, sau khi đã mất 2,2 tỷ mỹ kim đền bù, một số giáo phẩm phải từ chức và sáu giáo phận tuyên bố phá sản vì không đủ tiền bồi thường do nạn giáo sĩ lạm dụng, đã mau mắn tuyên bố hỗ trợ Uỷ ban này, nhằm làm việc cùng chính quyền dân sự[25] để loại bỏ nhanh chóng người phạm tội. Bản tin ngày 16/2/2017[26] cho biết Giáo Hội Công Giáo Úc Châu phải trả tổng cộng 213 triệu mỹ kim cho 3.066 nạn nhân bị lạm dụng tình dục bởi chừng 7% giáo sĩ và nam tu sĩ làm việc tại Úc Châu từ năm 1950 đến năm 2010. Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long, một người Việt đầu tiên làm Giám mục tại Úc, đã nói với Ủy ban Hoàng gia điều tra các đáp ứng định chế đối với nạn lạm dụng tình dục trẻ em hôm 21/2/2017 rằng “Tôi cũng là một nạn nhân của nạn lạm dụng tình dục bởi giáo sĩ khi mới đến Úc, ngay cả khi tôi đã trưởng thành[27].

Điều đáng tiếc là các Giám Mục Úc đưa ra các quan điểm khác nhau về ấn tín bí tích giải tội khi đối diện với những chất vấn của ủy ban hoàng gia điều tra lạm dụng tình dục: TGM Anthony Fisher của Sydney nói rằng ngài sẽ không báo cáo với cảnh sát nếu ai đó thú nhận lạm dụng một đứa trẻ, và sẽ ban phép xá giải cho người phạm tội sau khi đã sử dụng tất cả khả năng để thuyết phục hối nhân báo cáo sự việc với cảnh sát và nhấn mạnh rằng ngài sẽ không bao giờ vi phạm ấn tín bí tích giải tội. Trong khi đó, TGM Denis Hart của Melbourne nói rằng ngài sẽ giữ lại không ban phép xá giải nếu hối nhân không chịu báo cáo với cảnh sát[28].

Để sửa chữa tận gốc, Bộ Tu sĩ nói: “Trong số những ứng sinh vào đời tu, càng ngày càng có không ít thanh niên đã có những kinh nghiệm thương đau trong lãnh vực vừa kể trên, đòi phải được thanh lọc và uốn nắn lại[29]. Còn HĐGMVN chỉ thị: “Ngay từ đầu, các chủng viện, học viện hay cơ sở đào tạo của Giáo Hội không được nhận người có tiền sử, nghi vấn hay khuynh hướng cá nhân liên quan đến tội phạm này. Do đó, các cơ sở đào tạo phải tìm hiểu rõ về hoàn cảnh sinh hoạt cá nhân trước đây và gia đình của ứng sinh; phải có một quy trình được chuẩn bị sẵn để thanh lọc người không thích hợp về khả năng và khuynh hướng tâm lý. Trong quá trình đào tạo, phải loại trừ tức khắc những trường hợp được phát hiện[30]. Và cẩn thận hơn: “Khi một giáo sĩ hay tu sĩ muốn chuyển tịch hay chuyển nơi làm việc mục vụ, vị Bề trên của giáo phận hay tu hội tiếp nhận phải liên hệ trực tiếp với vị Bề trên cũ của đương sự, để không tiếp nhận những ai có xu hướng dễ dàng phạm tội lạm dụng tình dục trẻ em[31].

Với sự lo lắng đó, dù trong tình trạng thiếu linh mục, một vị Giám Mục kia chia sẻ rằng thà chịu thiếu chứ không xin, sợ rước phải “của nợ” người ta muốn thải ra; trái lại, một vị khác không cho đi, dù linh mục tình nguyện, vì sợ mang tiếng địa phận mình. Thật ra như vậy cũng không nên, vì biết đâu đó là cơ hội tốt Chúa ban để người anh em biến đổi nên hoàn thiện. ĐTC Phanxicô cũng nhấn mạnh: “Tất cả chúng ta đều là người tội lỗi, nhưng không phải tất cả chúng ta đều là những người ung thối hư hỏng. Người tội lỗi được chấp nhận, nhưng không thể chấp nhận những người ung thối, hư hỏng[32].

Về vấn đề này thì hiện có những khác biệt: một số vị Thẩm quyền và nhà đào tạo đưa ra lập trường dứt khoát phải loại bỏ ứng sinh nào đã có quan hệ tình dục, ai làm chuyện đó khi đã vào Dòng/Chủng viện thì càng phải thẳng tay sa thải hơn[33]. Trái lại, lập trường mềm dẽo hơn cho rằng ứng sinh nào đã nhỡ quan hệ trước khi vào Chủng viện/Dòng tu nhưng không vướng cản trở Giáo luật mà đã lật sang trang đời mới, dứt bỏ được hoàn toàn và còn riêng tư kín đáo thì có thể cho tiếp tục, với phương châm “mỗi vị thánh đều có một quá khứ, mỗi tội nhân đều có một tương lai” – “tội thì tha và lỗi thì sửa”. Phải tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai: lỗi một thời không phải là lỗi suốt đời. Tuy nhiên, phải triệt để tích cực sửa và sửa được bền vững mới được tiếp tục, còn không sửa hoặc sửa mà không sửa được thì cũng nên dứt khoát bắt chuyển hướng. Quả thế, ĐTC Phanxicô đã nói: “Linh mục nào cho tôi hay đã sa ngã, nhưng muốn ăn năn, tôi sẵn sàng giúp ông chỗi dậy. Có linh mục chỗi dậy được, có linh mục không… Chỗi dậy là làm việc đền tội, duy trì việc độc thân của mình. Sống hai mặt là điều chẳng tốt đẹp gì cho ai cả. Tôi không thích lối sống ấy vì nó giả dối, bởi thế tôi thường nói: ‘nếu không thắng vượt được, thì nên quyết định ra đi”[34].

b) Sự tấn công quá khích và bất công của thế gian

Giáo Hội luôn nhận trách nhiệm đối với các linh mục và giám mục dính líu vào việc lạm dụng này, và đã quyết liệt đưa ra nhiều biện pháp hữu hiệu để xử lý. Thế mà thật đáng tiếc là Ủy ban về quyền trẻ em của LHQ đã gay gắt cáo buộc Tòa Thánh đã để mặc nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục và thúc giục mở hồ sơ về các người phạm tội ấu dâm cũng như các Giáo phẩm che đậy các tội ác của họ. Thật ra, họ dùng tệ nạn lạm dụng tình dục này làm cớ để tấn công Giáo Hội Công Giáo, mưu toan can thiệp vào giáo huấn của Giáo Hội về phẩm giá con người và việc thi hành tự do tôn giáo, chứ không chỉ các giáo sĩ mà còn nhiều thành phần khác trong xã hội dân sự làm chuyện đó và khó mà tìm được một định chế quốc tế hay quốc gia nào khác đã làm được một cách chuyên biệt và hữu hiệu hơn Giáo Hội Công Giáo để bảo vệ trẻ em. Chính ĐTC Phanxicô đã nói: “Giáo Hội đã làm rất nhiều trên con đường này. Có lẽ nhiều hơn bất cứ ai… Giáo Hội Công Giáo có lẽ là cơ cấu công cộng duy nhất đã hành động với tính minh bạch và trách nhiệm; không có cơ cấu nào khác đã làm được hơn, thế mà Giáo Hội là người duy nhất bị tấn công[35].

Và qua những mưu tính thù nghịch bất công đó đã có những thế lực vận động tẩy chay Tòa Thánh ra khỏi LHQ để Tòa Thánh không có tiếng nói thường trực ở LHQ nữa. Nhưng thế giới Công giáo cũng có những nỗ lực ngược lại để bảo vệ sự hiện diện thường trực của Tòa Thánh tại LHQ, hầu tiếng nói của Chân Lý luôn được vang lên. Cảm tạ Chúa, đúng là “mưu sự tại nhân thành sự tại Thiên”: Trong chuyến thăm viếng mục vụ Hoa Kỳ, ĐTC Phanxicô đã được nồng nhiệt chào đón và đọc diễn văn tại LHQ cũng như trước lưỡng viện Quốc hội Mỹ.

c) Lập trường quyết liệt hơn của Giáo Hội

ĐTC Phanxicô cho biết: “Tôi cảm thấy buồn khổ đau đớn trước sự kiện một số linh mục và giám mục, bằng việc lạm dụng tình dục các em vị thành niên, đã phạm đến tính chất ngây thơ vô tội của họ cũng như đến ơn gọi linh mục của mình, vượt trên cả những hành động đáng khinh ghét… Giáo Hội xin được ơn khóc lóc trước những hành vi lạm dụng cực kỳ xấu xa đã lưu lại các vết sẹo cả đời đó… Tội lỗi lạm dụng tình dục của giáo sĩ phạm đến những em vị thành niên có một tác dụng độc hại trên đức tin và đức cậy vào Thiên Chúa, khiến nhiều người đã mất niềm tin tưởng vào Người”.

Thế rồi Ngài bày tỏ lập trường và kế hoạch hành động quyết liệt: “Không có chỗ đứng trong thừa tác vụ của Giáo Hội cho những ai phạm đến những thứ lạm dụng ấy, và tôi tự hứa rằng sẽ không dung nhượng cho bất cứ tác hại nào gây ra cho một em nhỏ bởi bất cứ cá nhân nào. Tất cả mọi Giám Mục cần phải thi hành thừa tác mục vụ của mình một cách hết sức cẩn thận để giúp bảo vệ trẻ vị thành niên, và các vị sẽ bị trả lẽ về vấn đề này… Chúng tôi sẽ tiếp tục tỉnh táo trong vấn đề huấn luyện linh mục. Chúng ta cần phải làm hết sức có thể để bảo đảm rằng những tội lỗi này không còn chỗ đứng nữa trong Giáo Hội”.

ĐTC xin lỗi và xin cầu nguyện cho Ngài: “Tôi khiêm tốn xin anh chị em tha thứ, tha thứ cả các tội không chịu ra tay giải quyết về phía các vị lãnh đạo trong Giáo Hội, không đáp ứng cách thích đáng trước việc tường trình lạm dụng do gia đình nạn nhân cũng như bởi chính nạn nhân… Xin cầu nguyện cho tôi thấy được cách rõ ràng con đường, và để Thiên Chúa ban cho tôi lòng can đảm kiên trì trên con đường này vì thiện ích của tất cả mọi trẻ em”[36]. Và khi gặp gỡ các nạn nhân, Ngài cam kết: “Chúng ta cần phải tiến lên phía trước trong chuyện này với chính sách hoàn toàn không khoan nhượng… Một linh mục gây ra điều này là phản bội lại Nhiệm Thể Chúa, bởi vì các linh mục cần phải dẫn cậu bé này, cô gái kia nên thánh, thế mà thay vì đưa họ đến sự thánh thiện lại lạm dụng họ”.

Ngày 1/5/2016, ĐTC nói với một Hiệp Hội Ý nhằm gây ý thức chống lại nạn ấu dâm và tố cáo những vụ xâm hại tình dục: “Đây là một bi kịch. Chúng ta tuyệt đối không được dung thứ cho việc xâm hại trẻ em. Chúng ta phải bảo vệ trẻ em. Và phải trừng phạt nghiêm khắc những kẻ xâm hại[37].

d) ĐTC không chấp nhận giải pháp tốt của một thời

Trước đây, khi giáo sĩ mắc sai phạm thường được giải quyết cách kín đáo: đổi đi nơi khác, hoặc cho đi tĩnh tâm sửa mình dài ngày trong một tu viện chiêm niệm, thậm chí cho ra nước ngoài làm việc, nhằm bảo vệ hình ảnh, quyền lực và định chế của Giáo Hội. Và đó là gốc rễ của tình trạng che đậy sự lạm dụng[38]. Nhưng khi kẻ lạm dụng đã “nắm thóp” nạn nhân thì nạn nhân không dám đối diện tiết lộ[39] và đành tâm che đậy[40]. Điều này giải thích việc các lãnh đạo Giáo Hội không thể biết chứ không phải che đậy.

HĐGMVN đề nghị: “Tùy theo sự cân nhắc khôn ngoan của mình, Đấng Bản Quyền có thể hạn chế thi hành tác vụ mục vụ, thay đổi chức vụ hay vai trò của người bị tố cáo trong khi chờ đợi làm sáng tỏ các lời cáo buộc[41]. “Vì lợi ích của Giáo Hội, Đấng Bản Quyền có thể hạn chế thi hành tác vụ mục vụ, hay yêu cầu họ di chuyển sang một nơi ở khác, nhất là trong trường hợp cần hạn chế họ tiếp xúc với trẻ vị thành niên[42].

Cách hành xử HĐGMVN đề ra không triệt để và đồng bộ với điều ĐTC mong muốn khi ngài nói: “không thể ở địa vị có quyền thế để rồi hủy hoại đời một người khác… phải lấy lại “bài sai”, không cho phép người đó thi hành chức linh mục nữa, và nên khởi sự một phiên tòa theo Giáo luật[43]. Quả thế, trong lá thư ngày 2/2/2015 gửi các HĐGM, ĐTC Phanxicô khẳng định lại lập trường không chấp nhận “giải pháp tốt của một thời”. Ngài nói: “ưu tiên không được cho bất kỳ loại quan tâm nào khác, bất kỳ bản chất của nó là gì, như ước muốn tránh tiếng xấu, vì tuyệt đối không có chỗ trong thừa tác vụ cho những ai lạm dụng trẻ vị thành niên”. “Tôi không tin vào việc chủ trương rằng cần phải duy trì một tinh thần hợp đoàn để tránh gây thiệt hại cho hình ảnh của định chế”[44].

Khi được Giám Mục gửi, nếu viện trưởng chấp nhận quá nhanh thì việc đón nhận vị linh mục sám hối sẽ không tốt, nhất là khi chưa nắm đủ thông tin của linh mục này. Do đó, cuối năm 2014, hơn 40 đan viện ở Pháp đã trình lên các giám mục một bản điều lệ nêu rõ các điều kiện tiếp nhận, dựa trên một thỏa hiệp không chính thức giữa “linh mục sám hối”, Giám mục liên hệ và tu viện: một thời gian ở thử, vấn đề tài chánh, sống với cộng đoàn, làm việc trong đan viện, được một đan sĩ kinh nghiệm theo dõi, lượng định thường xuyên tình trạng của linh mục, ghi rõ được quyền làm lễ hay không, việc đi ra khỏi nơi quy định như thế nào…

Để việc quản lý được tốt, không thể nào nhận một linh mục có án mà không có thông tin đầy đủ, bằng miệng và cũng như bằng viết, từ giám mục hay từ tòa án: các chi tiết về con người cũng như về biện pháp thích ứng dựa trên các sự việc linh mục đó bị lên án và các bắt buộc do tình trạng pháp lý này gây ra… vì nếu chỉ biết một ít yếu tố thì không đủ cảnh giác.

Một đan viện trưởng cho biết: “Tôi biết cứ 15 ngày linh mục đó phải trình diện với cảnh sát một lần và ông phải được một bác sĩ tâm thần khám. Chung chung những ngày ở đan viện diễn ra tốt đẹp, cho đến một ngày có người anh em tình cờ thấy linh mục này xem phim ấu dâm. Tôi đã gọi cảnh sát và họ đến bắt đương sự. Cộng đoàn khá rúng động vì tất cả anh em đều bị hỏi cung… Liệu mình có đủ khả năng để đương đầu những chuyện này không? Các người phạm tội ấu dâm bên ngoài thường tỏ ra tốt, nhưng bên trong họ giấu các vấn đề khác, chúng ta có thể quản lý họ được không? Chúng ta không thể canh họ như họ bị canh trong nhà tù, rõ ràng đó không phải là sứ mệnh của chúng ta… Tôi tự hỏi cái gì có thể bảo đảm và phục vụ tốt nếu bị cáo vào ở đan viện… Các linh mục có lối thoát trong đan viện, trong khi các người khác thì không có. Mong muốn đầu tiên để bảo vệ linh mục không nhất thiết là tốt nhất, nhất là trong trường hợp giam giữ phòng ngừa. Thật vậy, cầu cứu đến tu viện trong trường hợp này như một loại thay thế cho nhà tù. Chúng ta phải rõ ràng: sự tiếp nhận không phải là bao che, một hình thức có thể bị xem như đồng lõa”.

Theo Hội đồng Giám mục Pháp, tổng số người lạm dụng gần 15.000, trong đó có 12.000 giáo sĩ giáo phận và các tu sĩ; 2600 phó tế vĩnh viễn; từ năm 2010, có 137 vụ ấu dâm được các Giám mục hay các Bề trên Dòng báo cáo với các công tố viên; từ năm 1960, ước chừng có 25 giám mục đã bao che các vụ lạm dụng tình dục do 32 linh mục phạm tội, một số người chưa bao giờ bị ra tòa[45].

e) Đối với các Giám Mục bao che kẻ lạm dụng

Thế giới đòi giải quyết rốt ráo, không những các người phạm tội mà còn các giáo phẩm che đậy các tội ác của họ nữa. Và thực tế kể cả Giáo Hội Công giáo ngày nay cũng không còn chịu đựng bất kỳ sự che đậy nào. ĐTC Phanxicô đòi hỏi: “Tất cả mọi vị Giám Mục cần phải thi hành thừa tác mục vụ của mình một cách hết sức cẩn thận để giúp bảo vệ trẻ vị thành niên, và các vị sẽ bị trả lẽ về vấn đề này”[46].

Các nạn nhân còn đòi hỏi gắt gao hơn nữa, như bà Marie Kane phát biểu: “thật là tai tiếng nếu cứ để những người che giấu tội ác vẫn còn giữ chức vụ trong phẩm trật Giáo hội và Giáo hội sẽ chẳng thay đổi gì nếu những người này vẫn giữ chức vụ của họ”. Còn ông Saunders nói: “Tôi cầu nguyện để ĐTC gởi sứ điệp cho từng giám mục và từng địa phận trên toàn thế giới để họ sẽ không bao giờ che giấu những chuyện như thế này nữa”. Kết quả là nhiều Giám mục bị cáo giác là đã bao che phải bị bó buộc từ chức hoặc bị bãi nhiệm[47].

Trong thư ngày 2/2/2015, ĐTC nhắc nhở các HĐGM phải hoàn toàn thực thi lá thư luân lưu của Bộ Giáo Lý Đức Tin ngày 3/5/2011, thực hiện bất kỳ bước tiến cần thiết nào để bảo đảm việc bảo vệ trẻ em và người lớn yếu thế. Và trong phiên họp từ 8-10/6/2015, Hội Đồng Hồng Y Tư Vấn đề nghị ĐTC giao cho Bộ Giám mục, Bộ Truyền giáo và Bộ Các Giáo hội Đông phương thẩm quyền tiếp nhận và điều tra các tố cáo lạm dụng chức vụ Giám mục; thành lập một ban tư pháp mới thuộc Bộ Giáo lý Đức Tin và bổ nhiệm nhân sự để xét xử các Giám mục bị nghi ngờ lạm dụng chức vụ[48].

Các ký giả báo Boston Globe điều tra về nạn ấu dâm ở địa phận Boston, Hoa Kỳ, của 250 linh mục lạm dụng và của ít nhất là một giám mục bao che, làm nên cuốn phim Spotlight với giải Oscar về phim hay nhất, được rất nhiều chức trách của Tòa Thánh diễn tả sự quan tâm: Cuốn phim này, tất cả các giám mục, các hồng y và nhất là những người có nhiệm vụ hướng dẫn tâm hồn phải xem, để họ hiểu thế nào sự tố cáo đã cứu Giáo hội, chứ không phải cấm nói[49].

Ngày 15/6/2015, ĐTC chấp nhận để hai giám mục Mỹ tại Minnesota từ chức vì họ đã làm ngơ trước các tội phạm ấu dâm và đồng ý để Tòa án Vatican đưa cựu sứ thần Tòa Thánh, Jozef Wesolowski 66 tuổi ra tòa, vì bị cáo buộc lạm dụng tình dục trẻ em tại Cộng hòa Dominica; ngài là quan chức cao cấp nhất trong Giáo hội bị tước bỏ thánh chức trở về tình trạng giáo dân do tội phạm này. Phiên tòa bắt đầu vào ngày 11/7/2015 và mức án có thể từ 6 tới 7 năm tù[50], nhưng được chuyển sang một ngày khác vì bị cáo vắng mặt do đang nằm bệnh viện[51]*. Song chuyện gì rồi cũng có hồi kết thúc: Sáng thứ sáu ngày 28/8/2015, người ta tìm thấy ngài đã chết trong nơi cư trú và được xác minh do các nguyên nhân tự nhiên. Thánh lễ an táng được cử hành đơn giản theo nghi thức dành cho giáo dân cho thấy Vatican mong muốn đường hoàng khép lại một chương đau lòng của tai tiếng xâm hại trẻ em do vị cựu sứ thần Tòa Thánh này[52].

Từ khi có sự loan báo Vatican thành lập một Tòa án để xử các vụ bao che thì con số Giám mục từ chức không ngừng gia tăng: ngày 25/6/2015, ĐTC chấp nhận sự từ chức của Giám mục Gonzalo Galván Castillo 64 tuổi, bị cáo buộc bao che linh mục của mình[53]. Tuy vậy, Vatican khẳng định quyết tâm bảo vệ các nạn nhân và các linh mục có thể bị tố cáo lầm[54]. HĐGMVN cũng đề nghị: “Nếu như lời cáo buộc không đúng sự thật, Đức Giám mục và các Bề trên sẽ làm tất cả những gì có thể để phục hồi danh dự cho người bị tố cáo oan sai[55]. Và Hướng dẫn mới được ban hành tại Ái Nhĩ Lan về việc xử lý khiếu nại lạm dụng tình dục trong Giáo Hội nhấn mạnh rằng trong tiến trình điều tra các cáo buộc, vị linh mục có liên quan phải được coi là vô tội trong khi cuộc điều tra đang diễn ra, ngay cả khi ngài đã bị đình chỉ chức vụ để cuộc điều tra được tiến hành khách quan[56].

Qua Tự SắcNhư một người mẹ yêu thương”, công bố hôm 4/6/2016 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 5/9/2016, ĐTC Phanxicô ban hành quy luật bãi chức các Giám Mục và các Bề Trên cấp cao các Dòng Tu thiếu sót nghiêm trọng trong việc xử lý những vụ lạm dụng tính dục trẻ em hoặc những người lớn dễ bị tổn thương: Nếu thấy nên cách chức Giám Mục, Bộ sẽ khuyên đương sự đệ đơn từ chức lên ĐTC trong thời hạn 15 ngày, nếu Giám Mục không trả lời trong thời hạn dự trù, Bộ sẽ công bố sắc lệnh cách chức. Điều đó khiến vài tuần trước khi qua đời ở tuổi 85, ĐC Ronald Mulkearns, Úc châu, đã bày tỏ hối tiếc sâu xa vì đã chọn giải pháp lờ đi hoặc che giấu các vụ bê bối và ngài đã để lại tài sản riêng lên đến 2 triệu Úc kim để bồi thường cho các nạn nhân bị lạm dụng tình dục trong thời gian ngài tại chức[57].

Chúng ta hãy thương các Giám Mục và Bề Trên của chúng ta bằng sự thành thật cho các ngài biết những lầm lỡ của chúng ta hay động viên các anh em lầm lỗi trình bày để các ngài giải quyết cách công bằng theo trách nhiệm của các ngài, mà không bị oan là đã bao che.

f) Nỗ lực ngăn chặn không cho tái diễn nữa

Vấn đề xâm hại tình dục là một chuyện đau lòng, Bộ Giáo sĩ khẳng định: “Bất hạnh thay, những tình huống được xác nhận trong vấn đề đã gây thiệt hại lớn cho Giáo hội và cho sự khả tín của Giáo hội ở trong xã hội dân sự[58]. Trách nhiệm của một linh mục là giáo dưỡng một bé trai/bé gái lớn lên trong sự thánh thiện qua cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, vậy mà những gì họ làm là hủy hoại cuộc gặp gỡ này. Vì thế nỗ lực của Ủy ban Bảo vệ Trẻ em nhằm ngăn chặn không để xảy ra lạm dụng nữa[59]. HĐGMVN cũng chung ý hướng đó: “Khích lệ các tổ chức trong Giáo Hội đưa ra những quy tắc, luật lệ nhằm bảo vệ cuộc sống, nhân phẩm và quyền lợi của trẻ em, nhất là trong những cơ sở trực tiếp phục vụ trẻ em. Điều này giúp ngăn chặn những hành vi xấu lạm dụng trẻ vị thành niên và nâng cao hiệu quả phục vụ của Giáo Hội[60].

Địa phận công giáo ở Montréal loan báo rằng những ai ở trong “tầm ngắm” sẽ không được ở một mình với trẻ con hoặc với những người dễ bị tổn thương. Mục đích là tạo một “mạng lưới an toàn” cho tất cả mọi người liên hệ. Nguyên tắc mới này áp dụng cho các linh mục/tu sĩ và cho tất cả nhân viên của địa phận, kể cả các thiện nguyện viên và bất cứ ai ở trong “tầm ngắm” của Giáo hội công giáo[61].

ĐTC nhắc nhở: Trong các chủng viện cần quan tâm đến việc huấn luyện nhân bản, trí thức và tu đức, giúp chủng sinh gặp gỡ thực sự với Chúa, vun trồng sự dấn thân mục vụ và trưởng thành về tình cảm, để có khả năng đảm nhận đời sống độc thân linh mục và hoạt động trong tinh thần hiệp thông[62]. Ngài cũng đã nói rõ và dứt khoát với các Giám mục: “Tôi hứa những người có trách nhiệm phải trả lẽ… các tội ác và tội phạm ấu dâm trên các trẻ vị thành niên không thể được phép giữ bí mật lâu được… các nạn nhân phải được lắng nghe và được đối xử công chính, các người phạm tội phải bị trừng phạt và các tội ác ấu dâm phải bị đập tan với hành động phòng ngừa có hiệu quả, trong Giáo hội và ngoài xã hội”[63].

Trong Hội Nghị các Hồng Y Tư Vấn 8-9/2/2016, ĐHY Sean O’Malley, Chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ Trẻ vị thành niên, nói những vấn đề thuộc về pháp lý và kỷ luật sẽ được các chuyên viên thuộc lĩnh vực này nghiên cứu sâu hơn[64]. Ngày 15/2/2016, ngài cũng ra tuyên bố nhấn mạnh “trách nhiệm đạo đức và luân lý” phải báo cáo tất cả các trường hợp tình nghi lạm dụng tình dục cho nhà chức trách dân sự[65]. Trong Thư Mục Vụ tháng 1/2016, các Giám mục Philippines cũng cam kết hợp tác với các nhà chức trách dân sự chống nạn lạm dụng tình dục bởi giáo sĩ. Luật của Giáo hội, hoàn vũ và địa phương về lạm dụng tình dục vẫn không thay đổi và yêu cầu tuân giữ thật nghiêm[66].

Ủy Ban Bảo Vệ Trẻ Em của Tòa Thánh sau cuộc họp từ 24-26/3/2017 đã ra Thông Báo quyết tâm tiếp tục thi hành sứ vụ do ĐTC trao phó và tăng cường cộng tác với các HĐGM trên thế giới, tiếp tục giúp đỡ các Giáo hội địa phương trong trách nhiệm bảo vệ trẻ vị thành niên và những người lớn dễ bị tổn thương[67].

g) Một thực tế lớn hơn: Nạn giáo sĩ vi phạm tình dục

HĐGMVN nhận định: “Hoàn cảnh của Giáo Hội tại Việt Nam có nhiều khác biệt và chưa bị trực tiếp đe dọa nghiêm trọng như các nơi khác. Tuy nhiên… cần ý thức rõ ràng và cảnh giác cao độ về những nguy cơ tiềm ẩn có thể gây tác hại đáng sợ đến các thành phần của Dân Chúa”[68]. Quả vậy, trong thực tế của Giáo Hội Việt Nam, việc giáo sĩ lạm dụng tình dục trẻ em hầu như rất ít được nghe nói đến, nhưng việc có những giáo sĩ vi phạm tình dục nghịch lại luật độc thân khiết tịnh với người lớn, đời thường lẫn đi tu, kể cả có gia đình nữa thì không thể chối cãi. Các văn kiện của Giáo Hội về sau này cũng không chỉ dừng lại ở phạm trù lạm dụng tình dục trẻ em mà còn mở ra với phạm trù những người lớn yếu thế hay những người lớn dễ bị tổn thương, những phụ nữ bị buôc phải tuần phục cả tinh thần lẫn thể xác cho sự ham muốn của đàn ông [69].

Một số Đấng Bản Quyền giáo phận tại Việt Nam cũng đã xử lý một số trường hợp với các hình thức từ nhẹ đến nặng như nhắc nhở, khuyên răn, cảnh cáo đặc biệt, cho đi tĩnh tâm riêng dài hạn ở một đan viện, ngưng tác vụ mục vụ, cho hồi tục, mà hầu hết trường hợp đều là vi phạm tình dục đối với người trưởng thành. Chính ĐTC Phanxicô cũng đã chia sẻ cách giải quyết của ngài: Nếu linh mục nào đến cho tôi hay đã làm cho một phụ nữ có thai, tôi sẵn sàng lắng nghe, rồi từ từ giúp ông hiểu ra rằng luật tự nhiên đã lấn át chức linh mục của ông. Ông phải rời bỏ thừa tác vụ để chăm sóc đứa trẻ kia, dù ông quyết định không kết hôn với người phụ nữ đó đi nữa, vì đứa trẻ có quyền có một người mẹ thế nào, thì nó cũng có quyền có một người cha như thế. Tôi cam kết sẽ dàn xếp mọi giấy tờ cho ông ở Rôma, nhưng ông phải rời bỏ mọi sự…[70]*.

Trong cuộc phỏng vấn ngày 17/5/2016 dành cho báo La Croix, ĐTC Phanxicô nói mức độ khoan dung dành cho linh mục ấm dâm làm hủy hoại trẻ em phải là zêrô[71] và Ngài ca ngợi ĐHY Barbarin, TGM địa phận Lyon “đã có những biện pháp cần thiết”, khi nhìn nhận đã có những sai lầm trong quá khứ là xử lý ít, xử lý sai hoặc không xử lý gì và trong nhiều trường hợp, theo những quy tắc mà bây giờ là không thể hiểu được hoặc lỗi thời. Bây giờ phải xem lại các hồ sơ và hoàn tựu một công việc thanh tẩy to lớn… đồng thời có những biện pháp phòng ngừa là những buổi đào tạo cho tất cả các sứ vụ viên (linh mục, phó tế, giáo dân), một hiến chương bảo vệ tuổi thơ và tháp tùng các nạn nhân cùng người thân của họ. Từ nay chúng ta phải có trách nhiệm với tất cả các trường hợp. Đối với các linh mục ấu dâm, chuyện làm mục vụ lại là chuyện không thể được đặt ra nữa. Các nạn nhân không thể chấp nhận để cho linh mục này tại chức. Hành vi tỏ lòng thương xót đối với các linh mục phạm tội là một đau khổ mới cho các nạn nhân, họ thấy đây là một hình thức cự tuyệt, họ không cảm thấy mình được hiểu, được tôn trọng. Bây giờ đa số chúng tôi, linh mục, giám mục, tu sĩ, giáo dân đều có cảm nhận mình mang lỗi này lỗi kia của anh em mình[72].

Đúng như HĐGMVN nhận định, không có biểu hiện giáo sĩ lạm dụng tình dục trẻ em, nhưng ngoài xã hội, hiện tượng này đang gây chấn động, chúng ta cần cảnh giác đề phòng để đừng ai mắc vào kẻo sẽ rất tệ hại. Quả thế, thời gian gần đây, nạn lạm dụng tình dục trẻ em tại Việt Nam thực sự gây chấn động. Chiều 17/3/2017, tổ chức Liên hợp quốc phát đi thông điệp bày tỏ sự lo ngại về mức độ nghiêm trọng của xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam. Mỗi năm có ít nhất 1.300 vụ lạm dụng tình dục trẻ em được tố cáo, nhưng đó chỉ là phần nổi của tảng băng chìm và ngày càng lan rộng, vì phần lớn các nạn nhân vẫn giữ yên lặng và chính quyền vẫn chưa chịu vào cuộc xử lý thỏa đáng tác động lâu dài đến sự phát triển của trẻ em và xã hội[73].

Ủy ban Tư pháp và Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng tổ chức Phiên Điều Trần tại Nhà Quốc hội ngày 27/3/2017 ghi nhận: Một số vụ việc xâm hại tình dục nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận xã hội như: vụ bé 13 tuổi ở tỉnh Cà Mau tự tử sau khi bị người hàng xóm xâm hại tình dục nhiều lần; vụ việc nghi phạm là người già ở Vũng Tàu xâm hại tình dục với nhiều trẻ em; vụ cháu bé sinh năm 2012 bị đối tượng 78 tuổi xâm hại tình dục ở Ba Vì, Hà Nội; vụ cháu bé 8 tuổi ở quận Hoàng Mai bị xâm hại tình dục… Trong số các vụ xâm hại tình dục trẻ em thì số em dưới 6 tuổi bị xâm hại chiếm tới 13,2%[74].

III. Kết luận

Nhìn chung lại, tất cả những gì đã trình bày càng gia tăng tính nghiêm trọng của lời cảnh báo cho anh em linh mục chúng ta canh phòng để khỏi mắc phải hoặc để chấm dứt và biến đổi sửa mình hay can đảm ra đi. Đồng thời góp phần cộng tác với Chủng viện trong việc đồng hành đào tạo các chủng sinh, bảo vệ cất nhắc người tốt, loại bỏ người xấu và không thích hợp, không chỉ trong môi trường Chủng viện, mà cả tại giáo xứ quê hương, giáo xứ tập vụ, giáo xứ cha bảo trợ và các môi trường sinh hoạt khác nữa.

Thương Giáo Hội, thương ĐTC, thương các nạn nhân, chúng ta sẽ gia tăng cầu nguyện và nỗ lực cải thiện tốt hơn mỗi ngày đời sống và sứ vụ linh mục của chúng ta bằng việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa cùng giáo huấn của Giáo Hội.

Nhiều người sẽ không hiểu được theo cái nhìn hạn hẹp của con người tại sao Chúa lại để cho Hội Thánh phải trải qua những tội lỗi gây đau khổ như thế, không chỉ do những thành phần thấp bé, mà cả những cấp cao trong Giáo Hội? Satan đang cười nhạo Giáo Hội và hả hê về những chiến thắng của nó.

Nhưng không, trong cái nhìn đức tin, qua những tổn hại và đau khổ này, Chúa đang dạy chúng ta bài học khiêm tốn, đừng tự phụ vì “cây lim cây gõ còn ngã, huống gì chim chim bời lời”, đừng cậy dựa vào sức riêng mình, nhưng luôn luôn tựa nương vào sức Chúa.

Chúa cũng cho chúng ta thấy Giáo Hội là của Chúa, Chúa gìn giữ và bảo vệ Giáo Hội, không để cho cửa hỏa ngục thắng được như đã hứa với Phêrô, chứ nếu như Giáo Hội là một tổ chức của con người thì Giáo Hội đã tan nát từ lâu rồi. Và Chúa vẫn luôn tìm cách chữa lành chúng ta. Những hổ nhục và đau đớn đó sẽ gọt dũa bản thân chúng ta và làm cho chúng ta được thanh tẩy trở nên khiêm hạ hơn. Giáo Hội cũng trở nên khiêm tốn và được thanh lọc hơn, trung thành hơn với Chúa và Tin Mừng trong sự thật, công bằng và bác ái. Nếu hy vọng là thất vọng được vượt qua, thì chúng ta có đủ lý do để hy vọng và tin tưởng tạ ơn Chúa về sự trung thành của “tuyệt đại đa số linh mục là những người rất xứng đáng, toàn tâm toàn ý cho thừa tác vụ linh mục, chuyên tâm cầu nguyện và làm việc bác ái mục vụ, đặt cả cuộc đời vào việc thực hiện ơn gọi và sứ mệnh của mình Giáo Hội hãnh diện biết bao về các linh mục của Giáo Hội; Giáo Hội yêu mến, tôn kính, ngưỡng mộ và nhìn nhận với lòng tri ân công tác mục vụ và cuộc đời chứng nhân của họ dường nào[75].

Nhu cầu cấp bách trước mắt là phải cầu nguyện, hoán cải trở về với Chúa, cải thiện đời sống, tân Phúc âm hóa bản thân và cơ cấu, như ĐTC Phanxicô đang nỗ lực thôi thúc, hợp tác với ơn Chúa và để Chúa tự do làm phần việc của Ngài. Chúng ta đặc biệt cầu nguyện cho những người nắm trong tay các phương tiện truyền thông để họ luôn trung thực, không nuôi những toan tính ác ý làm tổn thương Giáo Hội. Chúng ta cũng cầu nguyện cho tất cả các linh mục, những linh mục hạnh phúc cũng như những linh mục đau khổ, những ai bị sa ngã cũng như những người đứng vững, những người làm tổn thương chúng ta cũng như những người nâng đỡ chúng ta[76].

HĐGM Nhật Bản chọn ngày Thứ Sáu Tuần II Mùa Chay làm Ngày Cầu Nguyện Đền Tội và Chữa Lành cho nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục. TGM Mitsuaki Takami của Nagasaki, chủ tịch, dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa chúng con là Đấng đầy lòng khoan dung, xin tha tội lạm dụng tình dục của các linh mục trong Giáo hội… Xin cho Giáo hội hiểu được nỗi buồn rầu và đau khổ của các nạn nhân và gia đình của họ. Xin cho Giáo hội biết đồng hành với họ và trở thành nơi an ủi để họ có thể tìm thấy Đức Kitô và được chữa lành[77].

Với tâm tình cảm tạ và thống hối ăn năn, chúng ta có thể thưa với Chúa như thánh Augustinô đã làm: “Này Chúa vẫn ở trong con, mà hồi ấy con vẫn cứ ở ngoài và cứ tìm Chúa bên ngoài. Con thật xấu khi mải chạy theo vẻ đẹp nơi các thụ tạo của Chúa. Những sự vật vẫn giữ con xa Chúa… Chúa gọi con, Chúa la to, và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng, Chúa chiếu tỏa và đã xua tan sự mù lòa của con. Chúa tỏa hương thơm, con hít lấy và con khao khát Chúa. Con đã nếm thử và bây giờ con đói Chúa, khát Chúa. Chúa đã chạm đến con và con nóng lòng tìm bình an của Chúa”[78].

Quả vậy, Thiên Chúa toàn năng có thể biến đổi mọi sự, Ngài có thể rút ra điều tốt từ điều xấu, và Ngài sẽ không bao giờ để cho công trình cứu độ của Ngài phải thất bại. Chúng ta hãy tín thác vào Chúa, cảm tạ và ca ngợi Ngài, vì tất cả là hồng ân. ĐTC Phanxicô cũng đã nói rằng “trong lịch sử Giáo Hội có biết bao nhiêu giám mục, linh mục thánh thiện đã trao hiến cuộc sống mình để phục vụ giáo phận, giáo xứ; có biết bao nhiêu người dân đã lãnh nhận sức mạnh đức tin, sức mạnh tình yêu, niềm hy vọng từ những vị mục tử nầy?… Chúng ta hãy nghĩ về những giám mục và linh mục can đảm, thánh thiện, tốt lành, trung thành và cầu nguyện cho các ngài. Chúng ta đang ở đây hôm nay là cũng nhờ các ngài[79].

(Dấn bước theo Chúa mp3)


Hai

XEM ĐẾN NHỮNG BIỂU HIỆN TÌNH CẢM VÀ TÌNH DỤC TỰ NHIÊN CỦA CON NGƯỜI

 

I. NHỮNG CÁCH THẾ CON NGƯỜI BỘC LỘ TÌNH CẢM VÀ TÍNH DỤC

1. Căn nguyên của vấn đề

Mọi tế bào trong cơ thể con người cứ từng 7 năm một lần đều được thay thế để tăng trưởng. Vấn đề sinh lý tính dục cũng thế qua dòng đời tuổi tác từ ấu thơ, dậy thì và trưởng thành, nên con người ai cũng có những ham muốn tự nhiên về sinh lý tính dục là chuyện bình thường, vì đó là sự phát triển các chức năng của cơ thể con người toàn vẹn mà Chúa đã dựng nên (x. St 1, 27-28; 4, 1-16.25).

Nguyên khởi cảm nhận những ham muốn sinh lý tính dục tự nhiên ấy không tội lỗi gì hết, vì đấy là sự phát huy chức năng của các cơ quan thể xác mà Chúa đã an bài để tiếp tục công trình sáng tạo nhân loại của Ngài. Trong lãnh vực này, người nữ gặp nhiều rắc rối hơn người nam do sự biến đổi các tuyến nội tiết và sự gia tăng các loại hooc-môn phục vụ cho chu kỳ kinh nguyệt và rụng trứng. Trái lại, sang giai đoạn thứ phát của việc cảm nhận những ham muốn sinh lý tính dục tự nhiên và dừng lại ở những ham muốn đó để tìm cách thỏa mãn chúng trái qui trình đạo đức và bậc sống mới là tội.

Mọi thân xác đều có tính dục và mọi tương quan đều có tính cách phái tính, kể cả tương quan máu mủ và thiêng liêng mà thánh Phaolô cảnh báo “khởi sự trong tinh thần mà kết thúc trong xác thịt[80]. Những kết quả điều tra về nạn lạm dụng tình dục trẻ em hay vi phạm tình dục với người lớn dễ bị tổn thương trong thời gian gần đây chứng minh điều đó, khiến một số Đấng Bản Quyền và Nhà Dòng không cho xin và nhận con bảo trợ nữa.

Phân tâm học nhấn mạnh cái mà Freud gọi là Libido, tức năng lực thúc đẩy dục tính bên trong mỗi con người. Nếu năng lực này được cân bằng, nó sẽ thúc đẩy thăng hoa hướng đến tình yêu và lý tưởng, còn nếu năng lực này bị mất cân bằng hay lệch lạc thì nó sẽ trở thành xung động rối loạn dồn nén hạ thấp xuống hàng bản năng. Năng lực này sẽ được thoát ra theo hai dạng: hoặc là thăng hoa hướng thượng đạo đức, hoặc là méo mó có tính cách bản năng suy thoái trong các hành vi ứng xử.

Desmond Morris (người Anh) chia các hành vi của các bộ phận cơ thể đối ứng tương tác với nhau theo hai giai đoạn quan hệ nam nữ:

1) Giai đoạn yêu thương chia sẻ:

. Mắt đối cơ thể

. Mắt đối mắt

. Lời đối lời

2) Giai đoạn yêu thương có tiếp xúc cơ thể trực tiếp:

. Bàn tay đối bàn tay

. Cánh tay đối vai

. Cánh tay đối eo

. Miệng đối miệng

. Tay đối ngực

. Miệng đối ngực

. Tay đối cơ quan sinh dục

. Cơ quan sinh dục đối cơ quan sinh dục

Các bạn trẻ cần phải làm chủ bản thân và tôn trọng bạn khác giới của mình để gìn giữ cho nhau, không vội vàng vượt quá và đốt giai đoạn. Khi đôi bạn chuyển từ giai đoạn yêu thương chia sẻ sang giai đoạn yêu thương có tiếp xúc cơ thể trực tiếp bằng một thứ ngôn ngữ không lời, thì tình cảm giữa họ càng sâu đậm hơn. Các hành vi đầu giúp thắt chặt thêm tình cảm mới chớm nở giữa hai người, còn các hành vi tiếp theo, nhất là trong giai đoạn cuối cùng là hiệu ứng nảy sinh từ những hành vi thân thiết ấy, có tác dụng kết tinh tình cảm và tình dục của cả hai trong đích điểm của ơn gọi đời sống hôn nhân gia đình.

Đối với loài người, hành vi tình dục đem lại những cảm nghiệm rất sâu đậm, gắn liền với những yếu tố nền tảng của luân lý và đạo đức, nói lên nhân cách và phẩm chất của con người. Nhưng cần cảnh báo rằng loài vật giải quyết sinh lý tình dục theo bản năng có thời và có mùa của chúng, trong khi con người lại có thể làm việc đó bất kỳ thời gian nào, mùa nào và bất cứ ở đâu. Do đó, các bạn trẻ hãy giữ mình và bảo vệ cho nhau, dành thời gian học cách yêu thương, học cách nhận biết và đáp đền. Hai bên hãy kìm giữ tốc độ chậm lại, ngay cả sức lực định dồn vào chuyện yêu đương cũng nên chuyển thành dịu dàng và kiên nhẫn, đồng thời tăng mức độ và thời gian suy nghĩ, cảm nhận, hướng về nhau hầu tôn trọng, giữ gìn và sống tốt quan hệ nam nữ của mình, biết khắc phục làm chủ bản thân như những con người trưởng thành và những người con ngoan của Thiên Chúa.

Tình dục không nằm trong sự bảo trợ của tình yêu nồng thắm thì không những không thúc đẩy tình yêu thăng hoa, mà ngược lại còn có thể giết chết tình yêu, làm suy thoái và tha hóa nhân cách. Sự phát triển tâm lý giới tính thường trải qua 3 giai đoạn:

·      Thời kỳ trung tính với giới tính khác phái,

·      Thời kỳ cảm tình với ngưới khác phái,

·      Thời kỳ luyến ái khăng khít với người khác phái và đưa tới hôn nhân.

Những xúc động, xao xuyến của tình cảm đầu đời nếu được sẻ chia, nâng đỡ, định hướng đúng sẽ là con đường đạt tới sự nếm trải trọn vẹn hạnh phúc làm người. Nếu thanh thiếu niên không được quan tâm và giáo dục đúng, mà tự mò mẫm tìm cho mình lờì giải đáp, hoặc được giáo dục cách không thích hợp như chúng ta thấy ngày nay, thì sẽ dễ bị sa ngã dưới sức ép của bản năng.

Thân thể của chúng ta chỉ thuộc về mình, chúng ta phải chịu trách nhiệm về nó. Biết trân trọng thân thể của mình, biết yêu lấy chính mình là chúng ta biết cách ứng phó với mọi tình huống, có cách nhìn nhận về tình bạn, tình yêu, quan hệ giới tính một cách nghiêm túc, tránh được sa ngã và những hậu quả thương tổn đến đời sống thể lý, tâm lý, thiêng liêng và hành trình ơn gọi, ơn gọi hôn nhân cũng như ơn gọi thánh hiến.

Do đó, mỗi người cần được trang bị những kiến thức đúng đắn về giới tính và về quan hệ nam nữ. Không chỉ là những kiến thức khoa học về sinh lý, sự thai nghén sinh nở, di truyền, các bệnh tình dục… mà điều quan trọng chính là giáo dục về nhân bản, tình bằng hữu, tình yêu thương, sự tự do, ý thức trách nhiệm, lòng thuỷ chung với chọn lựa và cam kết cuộc đời, hôn nhân hay thánh hiến, trong ý muốn và kế hoạch của Thiên Chúa.

Để thực hiện được tốt như vậy, chúng ta cần lưu ý nắm giữ cách hài hòa năm yếu tố cần thiết và quan trọng sau đây trong mối quan hệ nam nữ:

·      Nơi chốn gặp gỡ;

·      Thời gian và thời lượng;

·      Khoảng cách thể lý và tâm lý;

·      Sự có mặt của (những) người thứ ba;

·      Sống ý thức sự hiện diện khuất ẩn nhưng rất thực của Thiên Chúa.

2. Tính Dục và Khoái Cảm

Tính dục là hồng ân của Thiên Chúa ban như một chiều kích tích cực và lành mạnh của nhân cách. Tính dục có thể là tính dục tình ý hay tính dục sinh dục (tình dục).

a. Tính dục tình ý: Tính dục tình ý là phần tình cảm của nhân cách. Nó là khía cạnh liên hệ nhân bản và bao gồm tính nhạy cảm, sự hiểu biết, sự đón nhận, sự nồng ấm, sự cảm kích, lòng trắc ẩn, sự nâng đỡ, sự săn sóc v.v… Tính dục tình ý biểu lộ cảm giác yêu mến, gồm những đặc tính tinh thần, xã hội, dễ xúc động với tâm lý riêng cho nam và nữ.

b. Tính dục sinh dục: Tính dục sinh dục hay tình dục ám chỉ những gì liên quan đến kích thích hay sử dụng bộ phận sinh dục của thân thể con người. Tính dục sinh dục gồm hai khía cạnh/mức độ: Tình yêu sinh dục và Ứng xử sinh dục.

a) Tình yêu sinh dục: Tình yêu sinh dục là có những ham muốn sinh dục, cảm giác sinh dục, tư tưởng sinh dục, tưởng tượng sinh dục… nhưng không biểu hiện thành ứng xử. Cảm nhận tình yêu sinh dục là điều bình thường vì tất cả chúng ta đều là những con người. Tình yêu sinh dục có thể xảy ra, được hoạt hóa tự nhiên hoặc thăng tiến một cách tự phát hay chủ ý. Phân biệt giai đoạn nguyên phát và giai đoạn thứ phát để hiểu và xử lý tình yêu sinh dục qua bốn tình huống:
* Làm hài lòng là tìm thỏa mãn những cảm giác sinh dục của mình qua ứng xử sinh dục. Nhưng làm hài lòng những cảm giác sinh dục chỉ có trong đời sống vợ chồng: “Về điểm này, đừng ai làm tổn thương hay lừa dối anh chị em mình, vì Chúa là Đấng trừng phạt tất cả những cái đó, như chúng tôi đã từng báo trước và cảnh cáo anh em. Thật vậy, Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện.”[81]
* Ức chế là cách thức xô ngã những cảm giác sinh dục vào vô thức, loại trừ khỏi ý thức những thúc đẩy, cảm nhận, cảm giác làm xáo trộn tâm lý. Cố tình không chú ý tới, quên lãng đi, buông bỏ hay hướng qua một cái gì khác. Qua lời khuyên tỉnh thức và cầu nguyện của Chúa Giêsu, chúng ta cố gắng làm chủ bản thân không đụng chạm đến những chỗ nhạy cảm trên cơ thể của mình, không chú ý tới chúng mà tập trung hướng về Chúa và Đức Mẹ mà cầu nguyện.
* Đàn áp là hành vi ý thức kiểm soát và kiềm chế một ý nghĩ, một cảm giác và không chấp nhận nó. Người ta ý thức và cố ý gạt bỏ những cảm giác sinh dục, không cho chúng biểu hiện, dựa trên lý trí có cân nhắc, nghĩa là quyết định không tác động chúng. Đàn áp những cảm giác sinh dục đôi khi là tốt, nhưng nó cũng có thể gây phiền phức như bị căng thẳng, stress. Trong việc đàn áp những cảm giác sinh dục, ngoài nghị lực của ý chí và lý trí, nghị lực tâm linh cũng tác động bên trong cơ thể chúng ta.
* Thăng hoa là tiến trình của nghị lực lý trí, ý chí và tâm linh chuyển những cảm giác sinh dục sang những hành động và cách ứng xử được xã hội chấp nhận, tán thành. Thăng hoa là cơ chế hiệu quả nhất trong việc xử lý các cảm xúc sinh dục: hướng nghị lực đến hành động thăng tiến đời sống trưởng thành đích thực.
b) Ứng xử sinh dục: Chính con người mới có tình yêu sinh dục và chỉ có con người mới biểu lộ tình yêu sinh dục (làm tình) bất cứ mùa nào, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, khác với loài vật chỉ có mùa và theo bản năng. Nhưng để là con người thì không nhất thiết phải có ứng xử tình dục. Một người trưởng thành có thể không tự cho phép mình ứng xử theo tình dục, huống gì là người sống đời thánh hiến. Vì ứng xử sinh dục đòi sự cam kết hôn nhân, nên chỉ hôn nhân mới được đòi liên hệ ứng xử sinh dục. Ứng xử sinh dục ngoài vợ chồng là tội lỗi đức trong sạch.

c. Khoái Cảm

Biết loại khoái cảm mà chúng ta cảm nhận trong mình và tìm cách tốt nhất để xử lý chúng là điều tốt.

a) Khoái cảm tinh thần nổi lên từ sự vận hành của trí tuệ con người, nghĩa là trí năng và ý chí (đọc một cuốn sách hay, thưởng thức một bản nhạc ý nghĩa, ngắm một phong cảnh đẹp, v.v…). Không nên lẫn lộn khoái cảm tinh thần với khoái cảm sinh dục.
b) Khoái cảm giác quan đi theo sự vận hành của các giác quan như thị giác, xúc giác, thính giác, vị giác và khứu giác. Nếu khoái cảm nổi lên từ hoạt động của các giác quan và không liên kết với khoái cảm sinh dục, thì đó là khoái cảm giác quan đơn thuần. Nếu khoái cảm nổi lên từ sự vận hành của các giác quan và dẫn đến khoái cảm sinh dục thì đó là khoái cảm giác quan liên quan đến tình dục.
Lạy Cha cực thánh, nguyện hồng ân vô hạn,       

Chặn đứng ngay những khoái cảm bên ngoài,       

Lẻn vào hồn xúi dục tình náo loạn,               

Ép tinh thần sa chước độc trần ai[82].

Còn đôi mắt, ngăn đừng cho cuồng dại,       

Thu bóng hình những ảo ảnh phù vân.

Cho tấc dạ trinh bạch như tuyết trắng

Mãi can trường trong thử thách đau thương[83].

c) Khoái cảm sinh dục nổi lên là kết quả của sự kích thích cơ quan sinh dục. Sự vận hành của các giác quan cũng có thể kích thích khoái cảm sinh dục nơi một người. Nếu mục đích chính của một hành động là để có khoái cảm sinh dục thì đó là khoái cảm sinh dục được muốn trực tiếp. Nếu khoái cảm sinh dục nổi lên như một phó phẩm của một hành động không trực tiếp muốn, thì đó là khoái cảm sinh dục được muốn gián tiếp, chẳng hạn vào dịp sinh nhật của một người bạn, chúng ta mang quà đến tặng diễn tả tình cảm của chúng ta với người bạn ấy, nhưng trong khi giao tiếp chúng ta có thể cảm nhận khoái cảm sinh dục nơi mình, vì chúng ta vẫn là một con người. Nhưng khoái cảm chúng ta đang cảm nhận chỉ là phó phẩm của việc chúng ta bày tỏ tình thương mến đối với người bạn mà thôi. Tuy nhiên phải khôn ngoan tỉnh thức dùng năm phương thế tương quan và cầu nguyện để khỏi vấp ngã.

3. Những bộc lộ của xúc cảm tính dục

Mỗi người nam cũng như nữ đều có thể bộc lộ tình cảm tính dục của mình ra nơi những hình thức sau đây:

a. Thủ dâm là dùng tay kích thích các cơ quan sinh dục để tìm khoái cảm nhục dục: có thể là tự làm cho mình, làm cho người khác, hay để người khác làm cho mình[84]. Thủ dâm để tìm thỏa mãn nhục dục là tội và có thể đưa tới bệnh hoạn nữa (thói quen xấu, nghiện sex). Phải dùng mọi phương thế tự nhiên và siêu nhiên để làm chủ bản thân hầu tránh lỗi phạm và sống trưởng thành nhân bản cũng như thiêng liêng. Nếu một mình mà không làm chủ được bản thân và cứ thua cuộc thủ dâm thì làm sao vượt lên được sự yếu đuối bên trong và cơn cám dỗ mạnh từ bên ngoài bởi một đối tác khác phái? Hãy áp dụng cái hợp lực Chúa Giêsu đã nói đến (sức của ta là tỉnh thức + với sức của Chúa là cầu nguyện): “Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì nhẹ nhàng chóng vánh, nhưng xác thịt lại nặng nề yếu đuối”.

b. Tính dục đồng tính là có những biểu lộ tình dục giữa hai người đồng giới: Giáo Hội coi đây là một rối loạn ghê tởm trái tự nhiên, thường xảy ra trong các môi trường đồng tính nam và đồng tính nữ, giữa hai người đồng tuổi, một lớn một nhỏ, có khi cả giữa người có quyền và kẻ dưới quyền (lạm dụng tình dục trẻ em thường xảy ra trong nhóm người này). Việc giải quyết sẽ theo ba cấp độ: người có khuynh hướng đồng tính mới chớm nở thì đòi phải được sửa chữa trong một hạn kỳ nhất định và sửa được mới cho tiếp tục con đường ơn gọi; còn người có khuynh hướng đồng tính quá sâu nặng không thể sửa chữa được và người thực hiện hành vi tính dục đồng tính thì phải bị loại ra khỏi đời tu[85]*. Hiện nay, Giáo Hội có nhiều cách thế hỗ trợ mục vụ cho những người đồng tính[86], nhất là từ lập trường của ĐTC Phanxicô “tôi là ai mà dám phán xét khi họ tìm đến với Chúa?”.

Ngoài ra cũng cần lưu ý sự mất cân bằng tâm lý đưa tới cái nhìn biến thể coi một người nam “ủy mị” nào đó như một người con gái hoặc coi một người phụ nữ “mạnh mẽ” nào đó như một người đàn ông và cư xử với nhau như hai người khác giới, luôn dựa dẫm vào nhau và không thể thiếu nhau. Sự lệch lạc này cũng phải được quan tâm chữa trị uốn nắn hoặc thanh lọc.

c. Dữ kiện tâm sinh lý hấp dẫn tính dục là sức lôi cuốn mãnh liệt có tính cách tính dục đối với một người cá biệt nào đó, chứ không có tính cách phổ quát. Có sức hấp dẫn tính dục như Giuse Ai cập với vợ ông quan hay bị hấp dẫn tính dục như Đavít với vợ của Uria, hay ngược lại, vợ ông quan bị hấp dẫn tính dục còn vợ của Uria có sức hấp dẫn tính dục. Có sức hấp dẫn tính dục hay bị hấp dẫn tính dục đều là nguy hiểm đối với một con người, dù là người đời thường hay người tu hành, nam cũng như nữ, có gia đình hay còn độc thân, coi chừng kẻo bị tấn công hoặc tấn công mà vấp ngã[87]. Nếu vướng với một người có gia đình thì sẽ hết sức phức tạp: không những lỗi giới răn thứ sáu và thứ chín, ngoại tình, không chung thủy, mà còn có nguy cơ làm cho gia đình người ta tan vỡ kèm theo án lệ dân sự và hình sự nữa.

d. Sự quyến rũ và tình yêu: Với tất cả những yếu tố trên, cùng với sự kiện bất cứ người nam nào cũng khao khát một mái ấm gia đình hạnh phúc vợ đẹp con ngoan, những sự dịu dàng âu yếm nữ tính của nửa kia của mình, hay bất cứ người nữ nào cũng khao khát một bờ vai ấm áp vững chắc để nương tựa, một vòng tay mạnh mẽ để được ôm ấp che chở, một trái tim nồng nàn tình yêu, cộng thêm lối ăn mặc khiêu dâm kích dục, người ta dễ bị chinh phục bởi một sự quyến rũ. Sự quyến rũ này thuộc về sự lôi cuốn hấp dẫn của thể xác, chứ không phải là tình yêu, nhưng sự say đắm này có thể chiếm mất chỗ của tình yêu đích thực, cho đến khi nào sự quyến rũ say đắm đó không còn nữa thì người ta mới tỉnh ngộ quay trở về, song cũng có khi đã quá muộn để không còn có thể quay trở về được nữa.

II. TÌNH BẠN KHÁC PHÁI CỦA LINH MỤC

1. Nhận định và đặt vấn đề

Linh mục có thể có tình bạn khác phái không? Nếu Chúa Kitô đã đón nhận một số phụ nữ, cho họ cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ nhân loại, thì tương quan đó đã được Thiên Chúa phê chuẩn, và Chúa Giêsu trở thành mẫu gương hoàn hảo của tình bạn khác phái của chúng ta, được họa lại rõ nét trong đời sống của nhiều vị thánh[88]. Và mẫu gương của Chúa Giêsu vẫn còn có giá trị trong tất cả mọi chiều kích nhân bản và thiêng liêng của đời sống và sứ vụ ơn gọi của chúng ta. Như vậy, chúng ta có thể có bạn khác phái, nhưng phải khôn ngoan và cẩn trọng rất nhiều, phù hợp với phong cách và bối cảnh đời tu, vì một điều rất rõ ràng là sự yếu đuối và những nguy hiểm đã không đe dọa Chúa Giêsu, lại có thể nguy hiểm và đe dọa những người nam và người nữ sống đời thánh hiến.

Chúng ta đừng bao giờ quên rằng mọi thân xác đều mang giới tính và bất cứ tương quan nam nữ nào cũng có yếu tố phái tính, thậm chí cả trong tương quan máu mủ và thiêng liêng mà thánh Phaolô khuyến cáo là ‘khởi đầu trong tinh thần nhưng lại kết thúc trong xác thịt’, và không ai được cả dám tự phụ cho rằng mình mạnh và sẽ không bao giờ bị vấp ngã! Quà tặng độc thân thánh hiến có thể bị nguy hiểm, nhất là trong quan hệ độc hữu, khi mà một người nam đơn độc ở với một người nữ đơn độc hay ngược lại, lâu giờ trong một nơi kín đáo cửa khóa then cài, chẳng ai biết, chẳng ai trông thấy, mà không có bất cứ khoảng cách nào về thể lý, tâm lý và thiêng liêng, nhất là thiếu ý thức về sự hiện diện thường hằng của Chúa[89].

Người đi tu không có sự quân bình tự nhiên của người sống đời đôi bạn theo nguyên lý bổ túc âm dương, nên phải thiết lập và sống cho được thế quân bình siêu nhiên bằng đời sống cầu nguyện, mật thiết với Chúa, thắm tình huynh đệ, tận tụy với sứ vụ, cảnh giác toàn bộ cách ứng xử và cảm xúc của mình, ý thức rằng mình “gìn giữ kho tàng ấy trong những chiếc bình sành” dễ vỡ.[90] Sự thiếu quân bình siêu nhiên cộng với những khó khăn thử thách đau khổ, sự yếu đuối nhân loại bên trong và những cám dỗ lôi cuốn tấn công từ bên ngoài, khiến chúng ta có khi đi tìm sự quân bình tự nhiên kia mà vấp ngã. Kinh nghiệm cho thấy những người thất bại trong sứ vụ, gặp thử thách buồn phiền, chán nản thất vọng, lại thiếu đời sống cầu nguyện, thiếu tình huynh đệ và bỏ bê bổn phận, sớm muộn gì cũng sẽ sa ngã, bỏ cuộc. Vậy chúng ta đừng để mình rơi vào những hoàn cảnh bi đát, và cũng đừng làm cho ai phải buồn phiền quá đỗi. ĐTC Biển Đức XVI khuyên “Hãy mạnh mẽ củng cố tình bạn với Chúa, nhất là qua lời cầu nguyện thường ngày, chăm chú trung thành và tích cực tham dự Thánh LễThánh Thể là một hồng ân tình yêu phi thường mà Thiên Chúa liên tục canh tân trong chúng ta để dưỡng nuôi cuộc hành trình đức tin của chúng ta, tiếp thêm sức mạnh cho niềm hy vọng của chúng ta là khơi dậy tình bác ái của chúng ta để ngày càng trở nên giống Người hơn.”[91]

Chúng ta không thể tránh khỏi có những lúc mệt mỏi chán nản, thử thách đau khổ, đừng quên đường đến Nhà Tạm. Hãy chạy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, Ngài đang chờ đợi và mời gọi chúng ta “hỡi tất cả những ai mệt nhọc và mang gánh nặng nề, hãy đến với Ta và Ta sẽ nâng đỡ bỗ sức cho”, ngay cả giữa đêm khuya. Hãy trao trút cho Ngài mọi nỗi lòng của chúng ta. Tìm tâm sự với Chúa hơn là tìm tâm sự với con người. Và hãy chạy đến với Mẹ Maria, tận dụng các phương thế siêu nhiên:

Những lúc ngấm nỗi bồ hòn,

Nhìn lên Thánh Giá nỉ non đôi lời,

Tìm thêm sức mạnh cứu đời,

Từ tòa giải tội, từ nơi bàn thờ,

Vui đem Lời Chúa cho người,

Thắm tình đồng nghiệp, suốt đời thương nhau,

Đời này dù có khổ đau,

Chung nhau hạnh phúc đời sau thiên đàng.

Mẹ ơi, tấm vải cắt ngang,

Làm nên Mạnh Tử đàng hoàng hôm nay

Đời con dù có đắng cay,

Quyết luôn theo Chúa trong tay Mẹ hiền.

2. Tương quan với người nữ[92]

Người ta nên tốt hay không đều do các mối tương quan nên cần phải thiết lập mối tương quan trưởng thành, hài hòa và quân bình giữa cả hai phái. Điều này đã khởi sự tự nhiên từ trong gia đình, ngay thời niên thiếu, và sự sống quân bình cả nhân bản lẫn thiêng liêng vẫn tiếp tục trải ra và phát triển.

a. Với người nữ nói chung: Trợ Lực hay là Vấn Đề?

Theo sách Sáng Thế[93] và quan niệm Á Đông về Âm-Dương, người nam và người nữ rất hấp dẫn nhau, gắn bó với nhau, cần nhau và bổ túc cho nhau đến như không thể thiếu nhau.

Truyền thuyết tạo dựng người nữ của Huguette cho chúng ta thấy điều đó: Vào thuở tạo thiên lập địa, khi Thiên Chúa quyết định sáng tạo người nữ, Người thấy rằng Người đã tận dụng tất cả các chất liệu chọn lọc để tạo người nam mất rồi. Trước tình thế lưỡng nan này và sau khi ngẫm nghĩ dài lâu, Người lấy dáng đầy đặn của mặt trăng, những đường cong mềm mại của các làn sóng, sức gắn bó dịu dàng của dây bìm bìm, chuyển động rung rinh nhè nhẹ của các cành lá, dáng vẻ thanh nhã của thân cây dừa, màu sắc tinh tế của các bông hoa, ánh mắt si mê của con nai vàng, dáng e ấp của con chim gáy, vẻ kiêu kỳ của con công, sự mượt mà của bộ lông thiên nga, tính rắn chắc của kim cương, nét dịu dàng của con bồ câu, tính tàn bạo của con hổ, sức nóng cháy của lửa, sự giá buốt của tuyết, và Người pha trộn các chất liệu rất khác nhau đó lại mà tạo ra NGƯỜI NỮ. Rồi Người đưa nàng đến tặng cho người nam. Một tuần sau, người nam đến thưa với Người: Lạy Chúa, thọ tạo Ngài đã ban cho con làm con rất khổ. Nàng cứ bắt con phải quan tâm đến nàng, nàng không chịu rời con ra, nói thì huyên thuyên mà hơi chút là khóc, nàng cứ thích hành hạ con, nên con xin trả nàng lại cho Ngài, vì con không thể sống chung với nàng. Thiên Chúa trả lời “Được”, rồi Người lấy người nữ lại.

Một tuần sau nữa, người nam trở lại thưa với Người: Chúa ơi, con cảm thấy cô đơn quá, kể từ ngày con trả lại cho Ngài thọ tạo Ngài đã làm cho con. Nàng đã ca hát và vui đùa bên con, nàng đã từng nhìn con thật âu yếm, ánh mắt nàng như mơn trớn vuốt ve, nàng đã cười và tiếng cười của nàng nghe như tiếng nhạc, nhìn nàng thấy nàng đẹp quá, mà vuốt ve nàng thì thật êm ái. Xin trả nàng lại cho con, vì con không thể sống không có nàng”.

Sự việc cũng như thế với chúng ta và người nữ, nữ tu hay nữ giáo dân. Trong những mối tương quan này, có nhiều phương diện của cuộc sống thật ý nghĩa, đẹp đẽ và có nhiều công việc thật tuyệt vời. Tuy nhiên, họ không luôn luôn là trợ lực, nhưng lắm khi cũng là vấn đề và sa lầy không lối thoát cho một số anh em. Có khi vì một người đàn bà mà một số đã từ bỏ thừa tác vụ và ơn gọi, nhất là trong bối cảnh tục hóa, vật chất, hưởng thụ khoái lạc, phim sex và nhục dục, lấy cái tôi cá nhân chủ nghĩa làm trọng tâm, thay vì Chúa Kitô. Vì thế, đời sống độc thân khiết tịnh cần được bảo vệ cách ý thức bằng việc đặc biệt giữ cảnh giác cảm xúc và toàn bộ cách cư xử. Một lối sống phù hợp với đời tu không thể được phát triển nếu cứ dấn thân vào một mối quan hệ độc hữu với một phụ nữ. Thánh Phaolô dạy: “Bạn đã kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng tìm cách gỡ ra. Bạn chưa kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng lo kiếm vợ. Nhưng nếu bạn cưới vợ, thì cũng chẳng có tội gì. Và nếu người con gái lấy chồng, thì cũng chẳng có tội gì. Tuy nhiên, những người ấy sẽ tự chuốc lấy những nỗi gian truân khốn khổ. Mà tôi, tôi muốn cho anh em thoát khỏi điều đó”[94].

b. Tương quan với nữ tu: cần khôn ngoan và tỉnh thức.

Chúng ta hãy giữ trong trí óc và tâm hồn sự lệ thuộc của chính mình cũng như sự lệ thuộc của các nữ tu đối với Chúa, và luôn ý thức “phải trả cho Chúa những gì thuộc về Chúa”[95]: Cho Chúa rồi không thể lấy lại mà cho người khác! Nhưng do lý tưởng hiến dâng và môi trường mục vụ tông đồ, đôi bên có thể có mối tương quan thân mật, bằng sự cởi mở, hiểu nhau và chia sẻ sứ vụ, những thành công cũng như những khó khăn thất bại, tin tưởng nhau, cảm thông nhau, quan tâm đến nhau. Cũng phải kể đến những người nữ cùng làm việc tông đồ trong ca đoàn, các đoàn hội, hay ân nhân, bảo trợ, mạnh thường quân. Chính từ sự thân mật này, một cảm nhận “yêu thương” có thể dễ dàng phát sinh và phát triển, được bộc lộ có chiều hướng tiêu cực ra nơi ý muốn chiếm hữu – ghen tuông – và độc quyền, là những cái gây ra rất nhiều phiền hà và tai tiếng.

Chúng ta cũng phải ý thức rằng sự thân mật là nhu cầu của con người, nhưng sự thân mật trong đời sống độc thân thánh hiến không cần và không được biểu lộ có tính cách thể lý phái tính với những đòi hỏi tự nhiên. Sự thân mật độc thân thánh hiến có mức độ riêng biệt thích hợp của nó[96]. Chính mức độ này cung ứng đủ tự do để các người sống đời thánh hiến yêu thương nhau và yêu thương mọi người mà không vượt qua các giới hạn. Chúa Giêsu khuyên tỉnh thức và cầu nguyện, vì tinh thần thì nhẹ nhàng chóng vánh nhưng xác thịt lại nặng nề yếu đuối[97]: là người thánh hiến, chúng ta vẫn không thôi là con người với những ham muốn tự nhiên và những yếu đuối nhân loại. Thánh Phaolô chia sẻ: “Có ai trong anh em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối, có ai trong anh em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt?”[98]

Chúng ta cũng hãy kêu xin ơn can đảm để thăng tiến, vượt thắng và thánh hoá “tiếng gọi nhân loại” có thể chợt nghe vào một lúc nào đó, ngõ hầu giúp nhau sống và chu toàn những gì đã cam kết trong ơn gọi và sứ vụ của mỗi người, vì tình yêu nhiều khi không có tuổi và giờ hẹn[99]. Trong trường hợp ấy, phải biết cẩn trọng với nơi chốn gặp gỡ – thời gian và thời lượng – khoảng cách thể lý và tâm lý – sự có mặt của những người thứ ba – nhất là ý thức sự hiện diện thấu suốt mọi bí ẩn của Thiên Chúa.

Thêm vào đó, cũng cần phải rõ ràng minh bạch trong các tương quan mục vụ, thành thật với chính mình, với người khác và với Chúa, bởi vì lắm khi được che giấu dưới những cớ hợp pháp và chính đáng của các công tác và hoạt động tông đồ mục vụ, nhưng thực tế là bình phong che chắn những nghiêng chiều nguy hiểm của con tim. Chúng ta có thể làm cớ cho người khác vấp phạm, và người khác cũng có thể làm cớ cho chúng ta vấp phạm. Trong hoàn cảnh tế nhị này, sự hiện diện yêu thương và đời sống huynh đệ sẽ mang lại sự trợ giúp cần thiết. Nhờ tình bạn dâng hiến và nhiệt tình, mỗi người có thể là sự trợ giúp lớn lao cho người khác trong việc soi sáng, chỉ bảo và khích lệ lẫn nhau, khi phải chịu đựng những hoàn cảnh nguy hại, cũng như sự lây nhiễm một thứ tinh thần thế tục nào đó. Hơn nữa, cũng đừng cả dám tự phụ quên đi cái nghịch lý mà thánh Phaolô đã trăn trở: “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn…” Và ngài quả quyết “Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê. Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước”[100].

Ngoài ra, chúng ta không được quên nhu cầu cầu nguyện, khổ chế, ăn chay và chiêm niệm. Chúa Giêsu tha thiết cầu nguyện với Chúa Cha cho các tông đồ ngày xưa và cho chúng ta hôm nay: “Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ còn ở trong thế gian… Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hóa họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”[101].

Nhưng trên hết, mỗi người phải tin rằng tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tình yêu nhân loại, và chỉ có Thiên Chúa mới làm thoả mãn được con tim chúng ta và chúng ta thế nào thì Ngài yêu thương chúng ta thế ấy cho đến tận cùng; và chúng ta cũng phải yêu thương Ngài đến tận cùng với sự chung thủy của giao ước nhiệm hôn. Chúng ta cảm tạ Chúa và vui mừng vì tuy sự yếu đuối của con người luôn vẫn có đó, nhưng tuyệt đại đa số linh mục, tu sĩ đã luôn kiên trì giữ vững được đời sống và sứ vụ thánh thiện của mình. Chính họ thực sự là muối/men sự thánh thiện của Chúa giữa trần gian và là chứng tá hùng hồn cho đời sống cánh chung mai hậu, là lúc mọi người sẽ sống như con cái sự sáng của Thiên Chúa.

c. Tương quan với bạn khác phái đời thường:

Nếu những lưu ý về nơi chốn gặp gỡ, thời gian và thời lượng, khoảng cách thể lý và tâm lý, sự có mặt của những người thứ ba và sống ý thức sự hiện diện của Chúa đã được nhắc đến trên kia với giới nhà tu thì ở đây càng được nhấn mạnh hơn nữa, nhất là đừng bao giờ mời hay nhận lời đi riêng một mình mình với một mình bạn khác phái đến khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ, hay những nơi tương tự, vì bất cứ lý do gì[102]. Nhiều trường hợp đã gặp phải những hậu quả rất đáng tiếc, hỏng mất lý tưởng và cả đời người. Cần phân biệt hai trường hợp bạn là con gái và bạn gái Công giáo hay không công giáo để thiết lập mối tương quan trưởng thành, lành mạnh, hài hoà và quân bình với họ.

Đối với bạn là con gái hay bạn gái Công giáo: Nếu bạn là con gái hay bạn gái Công giáo thì dù gì cũng có một mẫu số chung là đức tin, luân lý và giáo lý công giáo về nhân đức hay tội lỗi. Chính mẫu số chung này tạo nên một môi trường lành mạnh, được bảo vệ hữu hiệu và an toàn hơn. Tâm thức sợ tội, yêu mến sự thánh thiện và việc bảo vệ ơn gọi được coi trọng, đề cao và chăm sóc gìn giữ bởi các thẩm quyền hữu trách trong Giáo hội, trong Dòng Tu, trong gia đình, trong cộng đồng giáo xứ và đoàn thể. Nếu người nào “xem ra có cái gì đó” thì sẽ có những can thiệp kịp thời và thích đáng. Thậm chí nếu ai thực sự “có vấn đề” thì cũng có mẫu số chung của Đạo để giải quyết. Tuy nhiên, “đừng đùa với lửa”, vì nhiều lúc trong tình trạng xem ra an toàn lại gặp phải nguy hiểm nhất. Chúng ta cũng đừng quên giữ luật giao tiếp: Ai giữ luật thì sẽ được luật giữ cho.

Bạn là con gái hay bạn gái không công giáo:

Trái lại, nếu bạn là con gái hay bạn gái không công giáo thì vấn đề sẽ khác hẳn. Việc không có được mẫu số chung về đức tin và luân lý, về nhân đức và tội lỗi, về các qui tắc của Giáo Hội sẽ làm cho các mối tương quan trở nên phức tạp, và sự thua thiệt chắc chắn sẽ về phía chúng ta. Các bạn ấy chỉ biết yêu là cho và cho để chinh phục người mình yêu, thậm chí gài bẫy cho “có kết quả” rồi có muốn lui cũng chẳng được nữa. Dĩ nhiên cần lưu ý rằng trong những người không công giáo cũng có rất nhiều người tốt, nhưng vì cách nhìn, cách hiểu, cách suy nghĩ không chung hướng đạo đức tôn giáo nên có thể tác hại cho đời tu của chúng ta; và họ họ cũng có thể hiểu sai, đánh giá sai về đời tu và về linh mục, tu sĩ Công giáo chúng ta. Nếu mối quan hệ đã vượt giới hạn quá xa thì đòi hỏi đương sự phải cất đi thiệt hại cho Giáo Hội bằng cách tự ý rút lui và người có trách nhiệm cũng cần cương quyết trong việc này: Vâng lời Chúa hơn là vị nể con người.

d. Đối với các góa phụ

Cái gì cũng có mặt phải và mặt trái của nó, cần cẩn trọng trong tương quan đối với các goá phụ: Một đàng có những góa phụ trưởng thành giàu có sẵn lòng giúp đỡ nơi ăn chốn ở, tiền bạc, xe cộ, máy móc cá nhân, cũng như quảng đại giúp đỡ trong các công việc chung tông đồ, từ thiện; nhưng đồng thời họ cũng rất đáng thương vì thiếu thốn các nhu cầu tự nhiên về tình cảm và tình ái hôn nhân gia đình. Nhiều người trong họ được một số ứng sinh, tu sĩ và linh mục trẻ nhận làm bà cố, làm chị em hay anh em kết nghĩa, để nhận được sự giúp đỡ về vật chất cũng như tinh thần, thường xuyên lui tới thăm viếng, ăn uống, ở lại nhà hay cùng nhau đi nơi nọ nơi kia cách quá tự nhiên như người nhà (cha nhà, thầy nhà), và rồi đến một lúc nào đó vượt quá giới hạn mà không ngờ. Nhớ cuộc điều tra về “sinh viên tầm gửi” của những chàng trai có sự hấp dẫn tính dục. Đàng khác có những góa phụ trẻ đẹp mẹ dại con thơ gặp khó khăn cần giúp đỡ, lòng trắc ẩn chăm sóc lo lắng của chúng ta đối với con cái họ hay chính bản thân họ, cùng với lòng biết ơn và muốn đền ơn của họ sẽ là bẫy ngầm không ngờ đó! Để cho lòng bác ái trắc ẩn ấy khỏi bị hiểu lầm, chúng ta nên giúp đỡ qua người khác hoặc cơ quan bác ái xã hội của giáo xứ, đừng thường xuyên đến nhà họ và cũng đừng để họ thường xuyên đến nhà mình.

e. Sự hấp dẫn tính dục

Chúng ta cũng cần quan tâm đến dữ kiện tâm sinh lý này là sự hấp dẫn tính dục. Hấp dẫn tính dục là sự cuốn hút và khêu gợi nhục dục dẫn đến ứng sử tình dục. Có sức hấp dẫn tính dục [như Giuse Ai cập với vợ ông quan] hay bị hấp dẫn tính dục [như Đavít với vợ của Uria] đều là nguy hiểm đối với một con người, dù là người đời thường, độc thân hay có gia đình, và cả người tu hành nam cũng như nữ, coi chừng kẻo bị tấn công hoặc tấn công mà vấp ngã. Ngoài ra, nên nhớ không chỉ các phụ nữ độc thân hay các góa phụ, mà một số phụ nữ có gia đình (cả nữ tu nữa) cũng không thể cưỡng lại những người đàn ông có sức hấp dẫn tính dục, hoặc vì sức hấp dẫn tính dục của mình mà lôi kéo người khác sa ngã.

f. Cạm bẫy mỹ nhân kế

Chúng ta cũng cần tỉnh táo với cạm bẫy mỹ nhân kế: Có những cạm bẫy tự đến với thân phận con người yếu đuối “trai tài gái sắc”, nhất là qua tiếng đàn giọng hát; có những cạm bẫy được dàn dựng vì tiền, vì công ăn việc làm, và cả về hôn nhân nữa; có những cạm bẫy được sắp đặt vì thù oán; có những cạm bẫy được dàn dựng cài đặt vì vấn đề chính trị, quyền lực; có những cạm bẫy được tổ chức để phá hại tôn giáo, Giáo Hội. Cũng cần cẩn trọng đề phòng bị chuốc rượu, chất kích thích, kích dục và cả đầu độc nữa.

3. Các giải pháp ứng xử tốt đẹp

a. Tương quan với mẹ và chị em ruột của mình

Mối tương quan đầu tiên và cơ bản nhất của chúng ta với người nữ phải kể cụ thể là mối tương quan với chính mẹ và chị em ruột thịt của mình. Mẹ của chúng ta là người nữ mà chúng ta đã nhận được sự sống, và thường nhờ mẹ mà chúng ta có được đức tin và ơn kêu gọi như hôm nay. Sự dịu dàng và chăm sóc yêu thương của tình mẹ nâng đỡ và bảo vệ chúng ta, giúp chúng ta lớn lên trong đời sống nhân bản làm người cũng như đời sống thiêng liêng làm tông đồ của Chúa. Mẹ và chị em ruột thịt luôn tiếp tục đồng hành cùng chúng ta, bằng tình yêu thương, lời cầu nguyện, sự chăm sóc canh phòng đầy khôn ngoan, an toàn và kính trọng. Một linh mục/tu sĩ tốt luôn giữ mối liên hệ mật thiết với mẹ và các chị em ruột thịt của mình, đặc biệt trong thời gian gặp thử thách, thất bại, bị hiểu lầm, đau ốm bệnh hoạn, buồn phiền chán nản, bị dao động tình cảm, bị cám dỗ và cả khi bị yếu đuối vấp ngã nữa.

b. Coi Cụ Bà như mẹ và thiếu nữ như chị em

Để sống hồng ân quí giá là đời sống độc thân thánh hiến vì Nước Trời cách trưởng thành và trong sáng, điều xem ra đặc biệt quan trọng là chúng ta phải phát triển cách sâu xa trong chính mình hình ảnh của các phụ nữ như mẹ và chị em mình, với cùng một lòng yêu thương và kính trọng như đối với mẹ và chị em, mà thánh Phaolô đã khuyên nhủ Timôtê: “Con hãy coi các cụ bà như mẹ, các thiếu nữ như chị em, với tấm lòng hoàn toàn trong sạch[103].

Trong thời đại hôm nay, chúng ta phải biết khám phá ra phẩm giá và ơn gọi của phụ nữ trong Giáo Hội và trong thế giới. Ngay từ thời của Ngài, Chúa Giêsu đã ân cần đón nhận sự cộng tác của nhiều phụ nữ theo giúp Ngài và cho họ một vị trí đặc biệt quan trọng, nhất là vai trò của Mẹ Maria và Maria Madalêna dưới chân thập giá, trong biến cố Phục sinh và thời kỳ đầu của Giáo Hội sơ khai. Có thể nói Giáo Hội dần dần lấy lại cái đã đánh mất hay lãng quên từ hai mươi thế kỷ nay đó.[104]

ĐTC Phanxicô đang có những động thái nâng vai trò nữ giới lên một tầm cao mới: Sau khi nhắc đến giáo huấn của các vị tiền nhiệm về vai trò quan trọng của phụ nữ, Ngài khẳng định: “Cả tôi cũng đã từng nhắc đến sự đóng góp không thể thiếu được của phụ nữ trong xã hội, đặc biệt là với sự nhạy cảm và trực giác của phụ nữ đối với tha nhân, người yếu thế và người vô phương thế tự vệ; tôi vui mừng khi thấy nhiều phụ nữ chia sẻ một số trách nhiệm mục vụ với các linh mục qua việc tháp tùng các cá nhân, gia đình và nhóm, cũng như trong việc suy tư thần học[105].

Ngài còn nói mạnh mẽ hơn: Chúng ta có thể nào hình dung một Giáo hội không có họ không? Không, chúng ta không thể nào hình dung được; đó là món quà của lòng thương xót của Chúa, là men bột để cho sự tăng trưởng của xã hội được công chính hơn, cho tình huynh đệ được thắt chặt hơn, họ đã mang ánh sáng của Chúa Kitô đến những nơi còn tăm tối, để gieo hy vọng cho những quả tim đã tuyệt vọng, họ đã chia sẻ cuộc sống của họ cho những người nhỏ bé, cho những người nghèo. Các nữ tu của chúng ta thật cao cả, họ đã tận hiến cuộc sống của họ, họ đã mang Lời Chúa đến với thế gian!”[106].

Sự thăng tiến này làm cho người nam và người nữ cảm thấy bình đẳng và biết tôn trọng nhau trong mọi khía cạnh cuộc đời. Quả thế, chân phước Giáo Hoàng Phaolô VI nhắc Dân Chúa trách nhiệm cầu nguyện và chân thành trợ giúp các linh mục vượt qua mọi nỗi khó khăn, tận tình yêu thương các ngài với tình con thảo và sẵn sàng cộng tác với các ngài, với kính trọng và tế nhị dè giữ, khích lệ và an ủi, vì các ngài là những người hoàn toàn tận hiến cho Chúa Kitô và Giáo Hội.

c. Theo cách ứng xử và mối tương quan hài hoà của Chúa Giêsu đối với phụ nữ

Phúc Âm cho chúng ta biết rằng thái độ ứng xử của Chúa Giêsu mang lại tự do và hòa điệu giữa Ngài và các phụ nữ. Chúng ta cần học từ Chúa Giêsu cách thức tương quan và ứng xử thế nào cho đúng mực với các phụ nữ. Chúng ta hãy xem các khuôn mặt chính:

·      Mẹ Maria, người mà Chúa Giêsu đã tỏ lòng yêu thương của một người con và hết lòng kính trọng vâng phục và Mẹ đã trở nên bản đối chiếu mật thiết của Ngài trong việc lắng nghe và thực thi ý Thiên Chúa;

·      Matta và Maria ở Bêtania, nơi mà Chúa thường ghé qua trong cuộc hành trình truyền giáo và Ngài đã trở nên rất gần gũi với họ;

·      Người phụ nữ xứ Samaria, được hoán cải và đổi mới, đã giới thiệu Chúa Giêsu cho dân chúng vốn không biết đến căn tính đích thực của Ngài;

·      Maria Madalêna, người được cứu sống và hoàn toàn biến đổi nhờ Chúa Giêsu, cô đã được gặp Chúa Sống Lại và nhận lãnh trực tiếp từ Ngài sứ vụ loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các tông đồ;

 

·      Người phụ nữ vô danh đã lên tiếng ca tụng hạnh phúc của Mẹ Chúa và nhân đó Chúa đã dạy cho biết hạnh phúc lớn lao hơn là lắng nghe và thực hành lời Chúa;

·      Các con gái thành Giêrusalem đã theo khóc thương Chúa Giêsu trên con đường khổ nạn là cơ hội để Ngài nhắc nhở mỗi người chúng ta phải khóc cho tội lỗi của mình.

Tóm lại, trong các mối tương quan của tình bạn khác phái, dù với người tu hay người ở giữa thế gian, chúng ta phải luôn qui hướng về Chúa Kitô, khiêm tốn nhìn nhận những điều kiện con người yếu đuối của mình, lắng nghe sự khôn ngoan và kinh nghiệm từng trải của kẻ khác, đừng đòi phải có kinh nghiệm bản thân trong lãnh vực này, và đừng bao giờ dám tự phụ cho mình là mạnh,[107] trái lại nhớ luôn rằng “con chim nhát là con chim sống” hay “tam thập lục kế, vi tẩu thượng sách.” Chúng ta phải luôn khiêm tốn và bền bỉ cầu xin ơn trung thành: những cây đại thụ trong Giáo Hội còn ngã huống gì là nhỏ bé dòn mỏng như chúng ta: “cây lim cây gõ còn ngã, huống gì chim chim bời lời”! Hãy xem câu chuyện Samson-Dalila trong sách Thủ Lãnh và lấy đó làm gương răn mình.[108] Và phải phát huy tình huynh đệ bí tích linh mục của chúng ta, vì khi chúng ta thực sự yêu thương nhau, ai cũng thỏa mãn được nhu cầu tâm lý căn bản yêu và được yêu của con người, thì chẳng ai thèm đi tìm bù trừ hay đón nhận một tình cảm nào khác, dù là rất ngọt ngào của người khác phái hợp nhãn vừa ý. Quả vậy, sống độc thân dù được Chúa gọi nhưng là một ơn gọi khó khăn, nếu không có sự hỗ trợ thiêng liêng và có được tình bằng hữu đích thực nâng đỡ.

Thật vậy, cuộc sống là một cuộc chiến đấu liên lỉ. Nhưng trong bất cứ cuộc chiến đấu nào cũng có chiến thắng và chiến bại. Nếu gặp phải trường hợp chiến bại, hãy cư xử theo lòng nhân hậu của Chúa Kitô, giúp nhau chuyển bại thành thắng, chỗi dậy đứng lên tiếp tục hành trình với bài học kinh nghiệm và tâm hồn đổi mới. Hãy coi lầm lỗi như một lúc con tàu bị trật bánh ra khỏi đường ray. Nếu khéo léo điều chỉnh, bánh xe sẽ lại trở về đúng vị trí để con tàu tiếp tục vận hành. Câu chuyện ông Samson vẫn nhắc rằng ngay cả sa ngã mà biết ăn năn, thì Thiên Chúa vẫn có thể ban ân nghĩa như trước.[109] Người lầm lỗi được chân thành thương yêu, quảng đại tha thứ và nhân từ nâng đỡ sẽ đủ nghị lực kiên trì biến đổi nên tốt: Tội thì tha lỗi thì sửa; mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai.

Ai cũng có thể bị vi-rút tình cảm và tình dục tấn công. Vấn đề là cần có sức đề kháng tốt để tránh được bệnh. Sức đề kháng đó nằm ở chính sự kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và tình huynh đệ linh mục, vốn là nhân tố làm thỏa mãn nhu cầu yêu và được yêu trong bối cảnh đời sống ơn gọi, đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu, và kiên trì chu toàn bổn phận theo đấng bậc đã được giao phó.

Ngày trước, khi còn dâng lễ bằng tiếng Latinh, cần có lời dẫn giải để giáo dân hiểu ý nghĩa của các cử chỉ, nghi thức và lời đọc để tham dự thánh lễ sốt sắng và hữu ích, tôi rất thích lời dẫn khi linh mục rửa tay sau dâng của lễ: “Khi linh mục rửa tay, chúng ta phải nguyện rằng ở giữa thế gian mà giữ linh hồn vẹn sạch thì rất khó.” Quả thật rất khó, ấy vậy mà Thiên Chúa vẫn giúp thực hiện được điều khó ấy cho hàng hàng lớp lớp giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân hằng kiên tâm thực thi giới răn của Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Cảm tạ Chúa và ước gì mỗi người chúng ta đều được nằm trong số ấy.

III. NĂM ĐỊNH LUẬT TÂM SINH LÝ KHÁC BIỆT NAM NỮ

Chúng ta học biết những điều này không những cho bản thân, mà nhất là cho sứ vụ hướng dẫn đoàn chiên của mình.

1. Luật Ưu Tiên

Điều ưu tiên của người nữ là một quả tim, một tình cảm, một trái tim muốn hòa nhịp với một trái tim khác, một tình cảm tha thiết muốn hiến trao tất cả cho người mình yêu. Cái ưu tiên ấy ẩn chứa một cái gì thanh nhã tinh thần hơn là thể xác nhục dục. Trái lại, nơi người nam thì thể xác là ưu tiên: Khi người nam nhìn hay nghĩ đến người nữ thì thường hình dung tới thân hình, đường nét, sắc diện thể chất. Đứng trước một thiếu nữ trẻ đẹp, người thanh niên sẽ thấy thể xác xúc động trước (ham muốn tình dục), rồi sau đó mới tới tình cảm và trái tim hoà nhịp theo. Người nam dễ bị lôi cuốn bởi thể xác người nữ, và thường mau chóng hướng tới việc muốn kết hợp thể xác, đến đỗi một số người để bản năng mạnh quá đưa tới cưỡng dâm, nhất là khi có sự hỗ trợ của các chất kích thích (rượu và các loại thuốc kích dục). Các người nữ ăn mặc hỡ hang, khiêu gợi, quyến rũ vừa là nguyên nhân vừa là nạn nhân của những vụ cưỡng dâm.

Sự khác biệt này có thể gây nên những khó khăn, nguy hiểm: Người nữ dễ dàng bị chinh phục bằng tình cảm nể nang, tội nghiệp, thương hại…, để rồi dễ dàng nhượng bộ đòi hỏi thể xác của phái nam. Trái lại, người nam dễ bị chinh phục bởi những đường nét duyên dáng gợi cảm và hấp dẫn nơi thân xác người nữ, khó lòng tự kiềm chế và thường đòi hỏi mau chóng kết hợp thể xác, coi đó như một bằng chứng tình yêu.

Người nữ nên để ý điểm này để tránh những nhượng bộ gây lỡ làng, với hậu quả đáng tiếc khiến phải ân hận suốt đời. Còn người nam nên để ý điểm yếu của mình để làm chủ bản thân, kính trọng người nữ, hiểu rằng người nữ nặng về tình cảm, sự chăm sóc ân cần tế nhị, lời âu yếm, cử chỉ thân mật, dịu dàng… để không vội vàng đốt giai đoạn trong khi gần gũi với người nữ ‘bắt mắt’ mình.

2. Luật Phân Cách

Trái tim người nữ chỉ có một ngăn và dành hết cho người yêu. Có thể nói trái tim người nữ là một toàn thể dành hết cho người mình yêu, không có phân cách. Mối tình dành cho người yêu chiếm hết trái tim chị: chị chỉ nghĩ đến anh, sống chỉ vì anh, sống để yêu anh và được anh yêu, tình yêu chi phối tất cả và hai mối tình không thể chung sống hòa bình nơi trái tim chị. Trái lại, trái tim người nam có tới 4 ngăn hoàn toàn biệt lập nhau: ngăn thứ nhất dành cho vợ và khi ở với vợ là không nghĩ tới gì khác (nếu có tình nhân anh cũng hành xử như thế!); ngăn thứ hai dành cho sự nghiệp, đến quên cả vợ con, gia đình; ngăn thứ ba dành cho sở thích, lý tưởng; ngăn thứ tư dành cho giải trí, nghỉ ngơi.

Người vợ hãy an tâm tin rằng chồng yêu chị, thương gia đình. Đừng tỏ ra nghi ngờ, khó chịu, ngăn cấm hoặc cản trở công việc của chồng, song hãy tập cảm thông chia sẻ với chồng và trong mọi lúc hãy tươi cười đón anh, lo âu với anh, an ủi anh và khuyến khích anh: đàng sau sự thành công của người đàn ông luôn có bóng dáng của một người phụ nữ. Trái lại, người chồng nên chừng mực trong công việc và để chị tham gia với mình, biết đền bù bằng lời nói, thái độ, cử chỉ, hành vi, yêu thương phụ giúp công việc của chị, nhớ rằng chị coi trọng gia đình hơn nghề nghiệp, quan tâm đến con người hơn công việc.

3. Luật Thính Giác

Người nữ không chỉ là một trái tim mà còn là một lỗ tai to, một lỗ tai to gắn liền với trái tim, những gì vào lỗ tai sẽ rơi thẳng ngay vào con tim. Chị có nhược điểm thích nghe những lời tán tỉnh, dịu ngọt và dễ tin những điều người ta nói hơn là việc người ta làm: “Chuông già đồng điếu chuông kiêu, anh già lời nói em xiêu tấm lòng!” Nhiều khi chị không phân biệt được lời tán tỉnh của kẻ sở khanh với lời chân chất của người yêu. Trái lại, người nam ở trong gia đình lại thiếu hay ngắn lưỡi: Ở quán xá hoặc ở những nơi khác, anh nói thao thao bất tuyệt về những chuyện chính trị, xã hội…, còn ở nhà nhiều khi anh câm như hến, ít nói, trầm ngâm, vì anh không thích những chuyện vụn vặt, chi tiết, lại ngại tâm sự, sợ những bộc lộ có đụng chạm tới bản thân mình.

Nhưng sự im lặng trong gia đình gây nặng nề cho cả hai, khiến anh thích ra quán cà phê hay đến một nơi vui nhộn, còn chị thích la cà bên nhà hàng xóm để chuyện trò “ngồi lê đôi mách”, “vuốt râu ông nọ đặt cằm bà kia”… Do đó đối thoại trao đổi sẽ tránh được những nghi ngờ, hiểu lầm, xích mích. Yêu là nói và nghe: Anh nghe chị tâm sự, nói chuyện nhà cửa, gạo cơm, con cái, bạn bè… Chị nghe anh nói chuyện về chính trị, xã hội, thể thao… Yêu là đối thoại, là mở tâm hồn và lý trí để cùng đón nhận, tham dự, chia sẻ tâm tình của nhau. Những gì anh nói với giọng dịu dàng, âu yếm, kính trọng, chị sẽ cho là đúng và sẽ chấp nhận. Còn những gì anh nói với giọng gắt gỏng, khó chịu hoặc khinh khỉnh, chị sẽ cho là sai, khó chấp nhận, mặc dầu đó là những điều đúng. Vậy khi phải chỉ trích, xây dựng những khuyết điểm của chị, anh phải áp dụng như thế; đừng bao giờ chê trách hoặc chế diễu chị, nhất là trước mặt người khác.

4. Luật Chi Tiết

Người nữ để ý đến các chi tiết, những cái cỏn con, một mùi hương, một vết son, một sợi tóc vương trên áo, v.v… Người nam quan tâm đến điều cốt yếu, chỉ nhớ đến những nét đại cương, những chuyện đáng để ý, lại thích những tin chính trị, xã hội, quốc sự… Các cuộc nghiên cứu tâm lý cho thấy trung khu thần kinh đại não của hai giới hoạt động không tương đồng: Khu thần kinh điều chỉnh tình cảm của nữ giới nhạy bén hơn nam giới, do vậy họ có thể nhớ như in những tiểu tiết về chuyện tình cảm. Còn khu thần kinh tình cảm nam giới thì ngược lại chỉ phản ứng khi chịu kích thích hoặc tác động mạnh. Hơn nữa, bộ não của nam giới làm việc hiệu quả và tập trung hơn, khiến họ nhanh chóng nắm bắt được tình hình tổng thể hơn là những chi tiết vụn vặt.

Sai biệt tâm lý này là nguyên do nhiều vui buồn, đau khổ: sứ mạng làm vợ, làm mẹ, săn sóc gia đình, nuôi con của chị đòi hỏi hằng ngày phải làm bao nhiêu việc nhỏ nhặt không tên, với bao nhiêu chi tiết; chị chú ý, quan sát và nhớ kỹ những chi tiết trong đời sống của anh, của gia đình trong khi anh ít để ý và hay quên. Một việc nhỏ cũng làm chị bực mình, đau khổ; một quên sót của anh làm chị buồn tủi, giận dỗi, nghi ngờ.

Vậy cả hai phải biết rằng yêu là nghĩ đến người yêu và tìm hạnh phúc cho người yêu: chị đừng hay than phiền về những chuyện nhỏ nhặt, dò xét những những điều tỉ mỉ, nhưng hãy rộng lượng thông cảm với những dự tính, công việc, những sinh hoạt hoặc giao tế của anh. Còn anh hãy chịu khó để ý đến chị, nhẫn nại nghe chị nói, dầu là những chuyện nhỏ mọn. Hãy lợi dụng những cơ hội, những chi tiết làm chị vui: quà tặng ngày sinh nhật, ngày cưới, những ngày vui buồn của chị, một lời khen, một quan tâm, một giúp đỡ…

5. Luật Bất Đồng Cảm

Người nữ phản ứng chậm nhưng kéo dài. Trong phạm vi tình cảm cũng như tình dục, người nữ như một trái bom nổ chậm (tính thứ phát), nhưng khi đã xúc cảm thì nỗi cảm xúc ấy kéo dài và mãnh liệt hơn anh. Người nữ như một đầu máy xe lửa: chuyển bánh chậm, khi có đà đi rất nhanh, nhưng ngưng lại chậm chạp. Trái lại, người nam phản ứng nhanh (tính khởi phát), nhưng cũng mau dứt: tình cảm cũng như tình dục chóng bộc phát mà cũng chóng nguội tàn, nên “cú sét ái tình” thường xảy ra nơi thanh niên hơn nơi thiếu nữ. Trong mọi việc, anh hãy kiên nhẫn, chờ đợi, chuẩn bị…, trong tình yêu thân mật cũng vậy, tránh những cử chỉ vội vàng, hấp tấp, mà nên dịu dàng, tế nhị. Hiểu biết định luật tâm lý này để biết thông cảm tha thứ cho nhau, tránh những xích mích nghi kỵ.

Tóm lại, những định luật vừa nói trên không áp dụng riêng rẽ nhưng bổ túc, liên hệ với nhau và là những định luật rất quan trọng chi phối đời sống và quan hệ nam nữ. Nhưng đó không phải là tất cả những sự khác biệt, bởi mỗi cá nhân là một “huyền nhiệm” không dò thấu. Những định luật này rất hữu ích để giúp mỗi người hiểu được người kia và khi nắm vững được những khác biệt tâm sinh lý này, chúng ta sẽ tránh được những phán đoán, những thái độ chủ quan thường đưa đến bất hòa, đổ vỡ, mất mát thua thiệt. Để mối quan hệ thật tốt và bền vững dài lâu, đôi bạn phải kính trọng nhau, yêu thương nhau, tin tưởng nhau, giúp đỡ nhau, khuyến khích nhau, tha thứ cho nhau, nhường nhịn nhau và thấu hiểu nhau.

Như những con người, chúng ta đáp lại Thiên Chúa qua các định luật tâm sinh lý mà Ngài đã ghi khắc trong chúng ta. Trong tiến trình đáp trả đó, chúng ta bị thách đố đặt trật tự vào cuộc đời chúng ta như thánh Augustinô nói: “Nhân đức là tình yêu có trật tự.” Khi tình yêu bị rối loạn (mất trật tự), chúng ta sẽ đi trệch định hướng đích thực cuộc đời của mình là luôn qui hướng về Chúa Kitô, là nỗ lực sống trở nên giống Chúa Kitô trong các thiên hướng, thái độ, nhân đức dẫn tới sự sống sung mãn; trong khi định hướng sai lầm là dành tình yêu cho thế gian và khoái lạc, của cải, địa vị/quyền lực.

Vì vậy, thánh Gioan căn dặn: “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi.[110]

Chúng ta phải chiến đấu với sức lôi cuốn và thúc đẩy đến từ hai hướng đối nghịch nhau đó: một bên bị thống trị bởi các nhu cầu xác thịt và bên kia được hướng dẫn bởi các giá trị của Thánh Thần. Ơn gọi vào đời sống thánh hiến là triệt để đi theo Chúa Giêsu. Đó là lời kêu gọi tới một sự biến đổi con tim nhân loại qua các Lời Khuyên Phúc Âm.

Mỗi người sống kinh nghiệm ơn gọi đều trải qua kinh nghiệm sống cái tôi của mình, hoặc đặt trọng tâm nơi mình hoặc đặt trọng tâm nơi Chúa, và tùy đó mà có định hướng đúng đắn hay định hướng sai lầm, hoặc chạy theo khoái lạc, sở hữu của cải, địa vị/quyền lực, hoặc họa lại nơi bản thân hình ảnh Chúa Kitô thanh khiết, nghèo khó và vâng lời.


Ba

VÀ NHỮNG GẬP GHỀNH TÌNH CẢM & TÌNH DỤC CỦA GIỚI NHÀ TU

I. NHỮNG GẬP GHỀNH TÌNH CẢM TRONG BA GIAI ĐOẠN CUỘC ĐỜI ƠN GỌI

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dạy: “Cần phải giáo dục cho các ứng sinh linh mục và tu sĩ biết quí chuộng đức khiết tịnh và sự độc thân cũng như trách nhiệm làm cha tinh thần, và cần giúp họ đào sâu kiến thức về kỷ luật Giáo Hội liên quan đến những vấn đề này”. HĐGMVN khuyến cáo: “Cần phổ biến và học tập tài liệu của Giáo Hội liên quan đến vấn đề lạm dụng tình dục trẻ em trong các cơ sở của Giáo Hội như Chủng viện, Dòng tu, các trung tâm đào tạo, các trường công giáo, hầu nâng cao ý thức của mọi người về tác hại trầm trọng của tội phạm này và dứt khoát xa tránh[111].

1. Trước khi vào Dòng/Chủng Viện

Hội thảo “Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên ở nước ta hiện nay” do Hội Khoa học Tâm lý Giáo dục Việt Nam tổ chức[112] đã cho thấy nạn quay cóp gian lận, nói dối, phạm pháp, ma túy, đáng lo hơn là phong cách sống đạo đức của học sinh, sinh viên ngày càng “có vấn đề” với 51,4% sinh viên cho rằng “sống thử trước hôn nhân là hiện tượng phổ biến” và được coi là “bình thường”[113]*. Bên cạnh đó là hiện tượng “sinh viên tầm gửi”, “tình nhà trọ” và từ đó nạn phá thai ngày càng gia tăng, cả trong giới thiếu nữ vị thành niên, và thật đáng buồn là Việt Nam “được” xếp hạng nhất thế giới.

Sống trong một bối cảnh xã hội thiếu vắng Thiên Chúa, buông thả luân lý và hưởng thụ khoái lạc nhục dục như thế, chắc chắn các thanh thiếu niên nam nữ sinh viên, học sinh sinh viên Công giáo, kể cả các dự tu nam nữ trong thời gian tìm hiểu ơn gọi và đi học, đi làm ở ngoài xã hội cũng không thể không chịu ảnh hưởng. Do đó, Huấn Thị “Những chỉ dẫn về việc huấn luyện…” của Bộ Tu sĩ mạnh mẽ nói rõ rằng: Trong số những ứng sinh vào đời tu, càng ngày càng có không ít thanh niên đã có những kinh nghiệm thương đau trong lãnh vực vừa kể trên đòi phải được thanh lọc và uốn nắn lại[114]. Chắc hẳn một số người trong các ứng sinh linh mục/tu sĩ của chúng ta cũng có trải qua các kinh nghiệm bản thân ấy! Và HĐGMVN chỉ thị: “Ngay từ đầu, các chủng viện, học viện hay cơ sở đào tạo của Giáo Hội không được nhận người có tiền sử, nghi vấn hay khuynh hướng cá nhân liên quan đến tội phạm này[115].

Người trẻ ngày nay trưởng thành sớm về mặt sinh học, lại được giáo dục tính dục không thích hợp, cùng với báo chí phim ảnh khiêu dâm, nên chuyện tình cảm yêu đương không thể tránh. Chúng ta cần giúp họ hiểu và sống tốt nguyên vẹn cuộc đời mình trước khi đi vào lựa chọn đời sống hôn nhân hay đời sống thánh hiến đúng như Chúa muốn và Giáo hội dạy[116]. Đồng thời cũng phải giúp họ thẳng thắn trực diện với những cản trở Giáo luật[117] và chiến đấu để lượng sức mình mà đổi hướng sớm, không cần đợi đến lúc bị phát hiện hay bị tố cáo, vì con đường tu không phù hợp cho họ[118].

Nếu chỉ là chuyện tình cảm và tình yêu bình thường thì nên dần dần chấm dứt, một khi đã chọn lựa đời tu. Nếu lỡ có chi hơn thế mà không đến đỗi mắc ngăn trở Giáo luật thì càng phải cương quyết dứt khoát, triệt để biến đổi lật sang trang đời mới, “đứt đuôi nòng nọc”, không nuôi dưỡng đèo bồng đu đưa nữa. Kể cả hai bên đều cùng đi tu thì càng phải biến đổi và thăng hoa nó lên, để tránh những hệ lụy “người xưa cảnh cũ” sẽ tiếp tục sau này, khi đã khấn hay chịu chức linh mục có điều kiện thuận lợi nhưng nguy hiểm hơn trong các mối quan hệ.

Thật không thể hiểu và chấp nhận những hẹn hò giấu diếm mối quan hệ tình cảm sâu nặng sẽ tiếp tục sau này nữa với chiêu bài coi nhau như bạn bình thường. Một cậu trai và một cô gái có thể là bạn của nhau, rồi người này có thể sẽ yêu người kia và cả hai cùng yêu nhau; tình yêu có thể đến sau tình bạn, nhưng tình bạn đơn thuần không thể có sau tình yêu, vì thuốc uống chỉ hữu ích trước khi chết chứ không thể sau khi chết! Giáo hội đã quá đau khổ, bị thiệt hại vì chuyện này và đang nỗ lực nghiêm khắc chấn chỉnh ngay từ bước tuyển lựa và đào tạo đầu tiên.[119]

Đã là con người thì ai cũng có những nhu cầu và ham muốn tự nhiên về tính dục cần phải chiến đấu, nhưng tội nghiệp cho những ai “bén mùi chùi chẳng sạch” sẽ phải chiến đấu nặng nề hơn. Họ cần sống tâm tình thống hối về những bất xứng trong quá khứ và quyết tâm sống dấn thân trọn vẹn hơn trong hiện tại và phó thác hoàn toàn tương lai trong tay Chúa. Tuy nhiên, nếu cứ phải chiến đấu quá nặng nề và quá dai dẳng thì không nên tiếp tục, vì sẽ khổ cho mình và cho nhiều người khác sau này, thiệt hại cho công cuộc dưỡng giáo và truyền giáo của Giáo hội. Vì lo ngại về tình trạng này, những vị có lập trường thực tiễn cứng rắn đòi phải loại ngay những dự tu đã có quan hệ thể xác.

2. Khi đã vào Dòng/Chủng Viện

Chúng ta hy vọng với ơn Chúa và nỗ lực của mọi người và mỗi người, các ứng viên đã được biến đổi, uốn nắn, thanh lọc, và đều có đủ các điều kiện cùng phẩm chất để được đào tạo và tự đào tạo nên những ứng sinh tốt lành thánh thiện, trong đường hướng “mỗi vị thánh đều có một quá khứ, mỗi tội nhân đều có một tương lai”, “tội thì tha và lỗi thì sửa” và “lỗi một thời chứ không phải lỗi suốt đời”, và đã sửa được, nhờ sự chăm sóc và đồng hành sâu sát, nâng đỡ, kiểm chứng trong một thời gian đủ dài lâu của chính đương sự và của những người có trách nhiệm, nhất là vị linh hướng. Còn những người không sửa, hoặc sửa mà không sửa được thì buộc phải chuyển hướng ơn gọi và ra đi, kể cả tuy đã sửa được nhưng vụ việc đã ra công khai và gây gương xấu nặng.

HĐGMVN chỉ thị: “Trong quá trình đào tạo, phải loại trừ tức khắc những trường hợp được phát hiện[120]. Và cẩn thận hơn: “Khi một giáo sĩ hay tu sĩ muốn chuyển tịch hay chuyển nơi làm việc mục vụ, vị Bề trên của giáo phận hay tu hội tiếp nhận phải liên hệ trực tiếp với vị Bề trên cũ của đương sự, để không tiếp nhận những ai có xu hướng dễ dàng phạm tội[121]. ĐTC Phanxicô cũng nhấn mạnh: “Tất cả chúng ta đều là người tội lỗi, nhưng không phải tất cả chúng ta đều là những người ung thối hư hỏng. Người tội lỗi được chấp nhận, nhưng không thể chấp nhận những người ung thối, hư hỏng[122].

Nhưng thực tế có không ít người vướng chuyện tình cảm và quan hệ thân xác đến nay vẫn chưa thể nào dứt được sau khi đã vào tu trong Dòng/Chủng viện, kể cả có những trường hợp đã khấn hoặc đang theo học triết học, thần học nhưng khi đi Hè, nghỉ phép, đi mục vụ và các công tác khác, mới vướng phải.

Chúng ta lắng nghe ĐTC Phanxicô chia sẻ về tình tuổi trẻ và cách giải quyết của ngài: “Khi còn là chủng sinh, tôi bị tiếng sét ái tình với một cô gái tôi gặp tại tiệc cưới của ông chú. Tôi choáng váng trước vẻ đẹp và sự thông minh của cô, và đã sững sờ một hồi. Khi trở về Chủng viện, tôi không thể cầu nguyện suốt một tuần, dù cố gắng hết sức nhưng cô gái vẫn hiện lên trong trí. Tôi phải nghĩ lại những gì mình đang làm. Tôi vẫn còn là chủng sinh, nên tôi vẫn còn tự do, tôi có thể gói ghém đồ đạc và về nhà. Tôi phải ngẫm nghĩ về chọn lựa của mình. Một lần nữa, tôi lại chọn, hoặc là để mình lại được chọn, con đường tu trì. Thật không bình thường nếu không có những chuyện này. Khi nó xảy ra, phải xác định lại bản thân và xem liệu bạn có thể tiếp tục theo chọn lựa của mình, hoặc thấy điều cảm nghiệm quá đẹp đẽ và sợ sẽ không thể trung thành với dấn thân này thì nên rời Chủng viện. Khi có chuyện đó xảy đến với một chủng sinh, tôi giúp anh ấy đi về bình an, để anh ấy có thể trở nên một Kitô hữu tốt thay vì một linh mục tồi[123].

Do vấn đề nghiêm trọng giáo sĩ lạm dụng tình dục trẻ em và người lớn yếu thế đòi hỏi phải thanh lọc ngay ở đầu vào, nhiều vị Thẩm quyền và nhà đào tạo đưa ra lập trường dứt khoát phải loại bỏ ứng sinh nào đã có quan hệ tình dục[124]. Nhưng một lập trường khác mềm dẽo hơn cho rằng ứng sinh nào đã lỡ quan hệ tình dục nhưng không có hậu quả và vướng cản trở Giáo Luật trước khi vào Dòng/Chủng viện mà đã dứt bỏ được hoàn toàn và riêng tư kín đáo thì có thể cho tiếp tục, với phương châm “tội thì tha và lỗi thì sửa – lỗi một thời không phải lỗi suốt đời” mà đã sửa được cách bền vững, được trải nghiệm bởi chính đương sự và được chứng thực bởi những người có trách nhiệm cùng thẩm quyền. Và nếu tuy đã sửa được nhưng đã quá ra công khai thì cũng phải dứt khoát bị từ chối vì thanh danh của Giáo hội và tránh gương mù cho giáo dân.

Còn đối với ứng sinh nào làm chuyện đó khi đã vào Dòng/Chủng viện thì càng phải thẳng tay sa thải hơn. Quan điểm đúng đắn, nhưng làm sao biết và xử lý được hết là một vấn đề lớn được đặt ra, vì họ thường che giấu để làm linh mục cho bằng được, vì nhiều áp lực trước một cuộc đời linh mục danh giá, giàu có, sung sướng hấp dẫn họ. Đó là hậu quả gian dối, bất kể lương tâm, nghĩ rằng không bắt được kể là vô tội của một xã hội thiếu vắng Thiên Chúa mà ĐTC Biển Đức XVI đã nói: “Một xã hội, nếu thiếu vắng Thiên Chúa, sẽ tự hủy hoại chính mình[125].

Thật rất đáng buồn và quan ngại âu lo là có một số ứng sinh bất chấp lương tâm và cả gan đi nước đôi vừa tiếp tục chùng lén quan hệ thân xác, thậm chí có con cái, mà vẫn tìm mọi cách để tiến tới làm linh mục cho bằng được, giấu diếm mọi người, giấu cả cha linh hướng, Bề trên và đấng Bản quyền[126]*. Và do đó vấn đề rất quan trọng được đặt ra là việc đồng hành phải thật sâu sát cả Tòa Trong lẫn Tòa Ngoài của các nhà đào tạo. Các ngài cần dấn thân trọn thời gian cho việc đồng hành đào tạo, không chỉ trong Dòng/Chủng viện mà còn mở rộng ra trong các môi trường sống khác như gia đình, bạn bè đồng nghiệp, giáo xứ quê hương, giáo xứ tập vụ, giáo xứ cha bảo trợ…, với sự hợp tác của toàn thể Dân Chúa, cách riêng hàng giáo sĩ chúng ta bằng gương sáng và sự chăm sóc tận tình thì mới mong hiểu biết sâu sát và toàn diện về ứng sinh được.

Đối với người Việt Nam chúng ta, lãnh vực tính dục rất tế nhị, các nhà đào tạo cần dành nhiều thời giờ nhẫn nại lắng nghe và khả tín, hầu ứng sinh dễ dàng bộc lộ đến tầng sâu của lòng mình đúng sự thật, không lo sợ và co mình lại hoặc nói dối, kẻo một lần đã nói dối thì họ sẽ có khuynh hướng nói dối mãi, dù biết rằng sẽ phải trả giá rất đắt khi lời nói dối bị vạch trần. Vấn đề này cần được hỏi han kiểm tra lại nhiều lần trong quá trình linh hướng, chứ không chỉ nghe trình bày một lần rồi thôi, để giúp họ thực sự tiến bộ, còn nếu không thì đề nghị chuyển hướng.

Ứng sinh cần đối mặt với những gì đã xảy ra cho mình và giải quyết chúng, với sự giúp đỡ của các nhà đào tạo, nhất là vị linh hướng. Điều mà vị linh hướng khám phá về người thụ hướng ở toà trong sẽ không được tiết lộ ra ở toà ngoài, kể cả khi Hội đồng Dòng/Chủng viện họp nhận xét để cất nhắc hay loại bỏ[127]. Tương quan linh hướng tương tác khép kín tay ba giữa Chúa Thánh Thần, người thụ hướng và vị linh hướng. Vậy nếu mỗi nhà đào tạo đều vừa làm linh hướng cho một số ứng sinh (phải giữ bí mật tòa trong, không được lên tiếng dù để bênh vực hay tố cáo khi họp hội đồng), vừa đồng hành tòa ngoài cho số đông ứng sinh còn lại (có quyền trao đổi nhận xét, đánh giá và bỏ phiếu quyết định) thì việc nhận xét về ứng sinh sẽ sâu sát hơn nhờ có đông người nhận xét. Các vị đồng hành việc phượng tự đạo đức thiêng liêng, đồng hành nhân bản và đồng hành tri thức nên giữ ở phạm vi tòa ngoài, nghĩa là có quyền nhận xét, đánh giá. Nếu ứng sinh nào muốn ký thác điều bí mật gì và yêu cầu giữ kín thì đừng nhận và yêu cầu ứng sinh phải trình bày cho cha linh hướng, để mình được tự do tòa ngoài, là nơi các nhà đào tạo nắm quyền chủ động, trong khi ứng sinh nắm quyền chủ động ở tòa trong với sự tư vấn của vị linh hướng. Ngay cả vị linh hướng cũng có thể nói về mặt tri thức của người thụ hướng với tư cách là giáo sư.

Như thế, mọi nhà đào tạo đều đóng hai vai trong cuộc họp hội đồng: vừa là linh hướng cho một số ứng sinh phải im lặng giữ bí mật tòa trong đối với người thụ hướng của mình, vừa là nhà đào tạo tòa ngoài có quyền và bổn phận đồng hành sâu sát và nhận xét đánh giá cất nhắc hay loại bỏ đối với các ứng sinh khác. Với tư cách là linh hướng thì phải giữ im lặng về người thụ hướng của mình, nhưng nhờ nghe các nhà đào tạo tòa ngoài trao đổi nhận xét mà biết được các nhận định khác nhận định của mình, kể cả những cái mình chưa biết hoặc bị che giấu để rồi có những phương cách hữu hiệu hơn để giúp đỡ hướng dẫn người thụ hướng của mình.

3. Trong suốt dòng đời sống sứ vụ

Chúa Giêsu biết rõ thân phận con người yếu đuối dòn mỏng của chúng ta nên căn dặn: “Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì nhẹ nhàng chóng vánh nhưng xác thịt lại nặng nề yếu đuối”. Kinh nghiệm cũng cho thấy rằng chúng ta luôn phải cậy dựa vào ơn Chúa, không bao giờ được tự phụ rằng mình mạnh đủ và sẽ không bao giờ vấp ngã: bảy mươi chưa què chớ khoe mình lành. Nhờ lòng khiêm tốn tỉnh thức cầu nguyện và khôn ngoan dùng mọi phương thế siêu nhiên cũng như tự nhiên, đặc biệt lưu ý năm yếu tố này: nơi chốn gặp gỡ, thời gian và thời lượng, khoảng cách thể lý và tâm lý, sự có mặt của những người thứ ba, sống sự hiện diện khuất ẩn nhưng rất thực và thấu suốt mọi sự của Chúa, bao nhiêu người đứng vững trung kiên.

Nhưng bên cạnh đó cũng có những trường hợp vấp ngã không ai ngờ trước được do hoàn cảnh, do các mối liên hệ mới kết nối trong các hoạt động mục vụ, nhất là trong những lúc gặp thử thách, thất bại, buồn phiền: có người suốt từ nhỏ rất tốt, nhưng mới ra làm mục vụ được một thời gian ngắn đã ngã ngựa, có người tới tuổi trung niên, có người tới tuổi hồi xuân, thậm chí có người tóc đã ngả màu, với người nữ đời thường, lẫn đi tu và cả người có gia đình!

Đối với những người gây hậu quả nghiêm trọng, ĐTC Phanxicô chỉ cách giải quyết: Nếu linh mục nào đến cho tôi hay đã làm cho một phụ nữ có thai, tôi sẵn sàng lắng nghe, rồi từ từ giúp ông hiểu ra rằng luật tự nhiên đã lấn át chức linh mục của ông. Ông phải rời bỏ thừa tác vụ để chăm sóc đứa trẻ kia, dù ông quyết định không kết hôn với người phụ nữ đó đi nữa, vì đứa trẻ có quyền có một người mẹ thế nào, thì nó cũng có quyền có một người cha như thế. Tôi cam kết sẽ dàn xếp mọi giấy tờ cho ông ở Rôma, nhưng ông phải rời bỏ mọi sự…[128]*.

Những trường hợp không nghiêm trọng như thế, phải thành thật nhìn nhận đó là những lúc suy thoái và tha hóa của cuộc đời dâng hiến, là con đường ngõ cụt, là con đường đi hoang của chiên lạc, cần phải quay lại và điều chỉnh để tiếp bước tốt hơn con đường đã chọn. Là chiên lạc, đừng trốn chạy, nhưng hãy để cho Chúa, Bề trên và anh em tìm gặp được và đưa về lại đàn chiên thánh thiện của Chúa. ĐTC Phanxicô đã nói: “Linh mục nào cho tôi hay đã sa ngã, nhưng muốn ăn năn, tôi sẵn sàng giúp ông chỗi dậy. Có linh mục chỗi dậy được, có linh mục không… Chỗi dậy là làm việc đền tội, duy trì việc độc thân của mình. Sống hai mặt là điều chẳng tốt đẹp gì cho ai cả. Tôi không thích lối sống ấy vì nó giả dối, bởi thế tôi thường nói: ‘nếu không thắng vượt được, thì nên quyết định ra đi”[129].

Chúng ta không thể tránh khỏi có những lúc mệt mỏi chán nản, thử thách đau khổ, đừng quên đường đến Nhà Tạm. Chúa luôn vẫn đứng cuối đường chờ đợi tha thứ và đỡ nâng chúng ta. Hãy chạy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, Ngài đang chờ đợi và mời gọi chúng ta “hỡi tất cả những ai mệt nhọc và mang gánh nặng nề, hãy đến với Ta và Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho”, ngay cả giữa đêm khuya: Đêm khuya thanh vắng ngừng giấc, những gì cho Chúa không mất bao giờ! Hãy trao trút cho Ngài mọi nỗi lòng của chúng ta: Tìm tâm sự với Chúa hơn là tìm tâm sự với con người. Và hãy chạy đến với Mẹ Maria và thưa với Mẹ: Mẹ ơi, Mẹ đã nêu gương, giúp con theo Chúa đau thương chớ rời!

Chúng ta nên khiêm tốn và can đảm gọi tên vạch mặt một số trường hợp vấp ngã để giải thoát cho những người này và phòng tránh cho những người khác khỏi sa ngã. Chúng ta có thể chia sẻ inter nos những vấp ngã của chúng ta và của anh em mà chúng ta biết như những biển chỉ đường (đường trơn trợt, đường ngoằn nguèo nguy hiểm, đoạn đường thường xuyên xảy ra tai nạn, v.v…) đem lại một hành trình an toàn. Trong lãnh vực này không ai được phép cho rằng mình mạnh để bỏ qua bài học kinh nghiệm của người đi trước “bảy mươi học bảy mươi mốt”, như thánh Phaolô thú nhận: “Có ai trong anh em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối; có ai trong anh em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt[130], và ngài khuyên “ai tưởng rằng mình đang đứng vững hãy coi chừng kẻo ngã[131]. Gương Samson-Dalila[132], cũng như vua Salomon vào cuối đời là những bài học nhắc nhở quý báu[133]. ĐHY Carlo Maria Martini nói: “Mọi người, tín hữu, Giám mục, linh mục phải xác tín rằng không ai chắc chắn bền đỗ được; mối nguy lớn nhất là tưởng rằng mình đã đạt đến một mức ổn định đến nỗi không cần thận trọng nữa”[134].

Con xin chia sẻ kinh nghiệm bản thân, với khả năng bị cám dỗ và sa ngã phạm tội thì không thiếu đâu, nhưng chỉ vì lòng Chúa thương gìn giữ mà thôi. Đây là bài thơ lục bát tự sáng tác vào tuổi trung niên, bắt đầu từ những chữ cái tên của con: Trần Minh Huy Micae.

Thân con đã quyết một lòng

Ra đi thu gặt lúa đồng cho Cha

Ân tình gieo rắc gần xa

Nhưng mà phận yếu phong ba cũng sờn

Mẹ ơi, xin tỏ nguồn cơn

Ít ngày với mẹ cô đơn tình nhà

Ngày nay con đã làm cha

Hay thương thông cảm gần xa muôn người

Hại thay quỹ đạo tình đời

U huyền giăng bủa chơi vơi bao lần

Yếu hèn con đến Nhà Chầu

Mở ra trao trút cả bầu tâm tư.

Thật sự lắm lúc cũng chơi vơi lắm, cám ơn Chúa cho còn được như ngày hôm nay.

4. Cách ứng xử cần thiết và thích hợp: Chia tay

Trước những bước đi gập ghềnh của tình cảm và tình yêu chen lấn vào con đường ơn gọi và sứ vụ đó, các đương sự cần phải dứt khoát điều chỉnh chia tay:

Cả hai đồng thuận: Cuộc chia tay diễn ra khi hai người thấy không thể duy trì một mối tình “ngõ cụt” như thế, dù có cảm nhận đau khổ, mất mát, tùy mức độ và thời gian gắn bó… Lời khuyên thích hợp là hãy để thời gian giúp chữa lành.

Người bỏ ta: bị sốc và chịu tổn thương, hãy cắt đứt liên lạc, xóa số điện thoại của người ấy để ngăn không gọi điện. Cố gắng giải tỏa tâm trí, thanh thản vượt lên cho một khởi đầu mới[135].

Ta bỏ người: Dù đã rất đắn đo cân nhắc, ta cũng cảm thấy mất mát tiếc nuối. Hãy nhớ rằng đó chỉ là một giai đoạn nhất thời và hãy để quá khứ ngủ yên.

Đừng nhập nhằng nước đôi: Thật khôi hài, ảo tưởng và ngụy biện những kẻ đã quan hệ thân xác rồi phải chia tay mà còn du dưa lui tới, lại bảo rằng chúng tôi coi nhau như là “bạn bình thường”! Không thể có thứ tình bạn đơn thuần trong trường hợp này, điều đó không dễ dàng và thậm chí không thể, vì “tình cũ không rủ cũng tới” và “bén mùi chùi chẳng sạch[136]. Tình yêu có thể đến sau tình bạn, nhưng tình bạn đơn thuần không thể có sau tình yêu, vì thuốc uống chỉ hữu ích trước khi chết chứ không thể sau khi chết. Nếu ai đã có cái gì đó rất sâu đậm, thì nên tự động rút lui, đừng để Bề trên phải đau đầu khi có đơn thư tố cáo và phải can thiệp sa thải[137].

Hãy để “đứt đuôi nòng nọc”[138]: Cần phải dứt khoát để tự trắc nghiệm bản thân, và người khác cũng yên tâm là ta đã đứng lên được, hoàn toàn thay đổi và kiên trì trên con đường mới: “Đường anh anh đi, đường em em đi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi, đã quyết không mong sum họp nữa, bận lòng chi nữa lúc chia phôi[139].

Tuy nhiên, khi tình cờ gặp lại, hãy cư xử cách tao nhã có văn hóa và cao thượng, cứ tự nhiên chào hỏi chân tình, nhưng hãy lịch sự từ chối, không nể mất lòng, yếu mềm thương hại mà nhận lời hay rủ rê người ấy đi riêng với nhau tới những nơi trước đây đã từng tới, không chuyện vãn lâu giờ, không nhắc lại những kỷ niệm và những việc đã qua. Nhớ thực hành 5 yếu tố cần thiết trong các mối tương quan khác phái. Hãy để quá khứ qua đi, và vun đắp cho cuộc sống hiện tại.

Chuyện gì làm riêng tư một mình thì có Chúa biết, nhưng chuyện gì làm giữa hai người thì rồi ra người khác cũng sẽ biết, không biết được hôm nay thì mai kia cũng sẽ biết. Có thể vì nhân đạo, họ không nói hoặc chưa nói đó thôi[140]. Chúng ta nên nhớ rằng những người thương mình và bảo vệ Giáo hội sẽ không chấp nhận thái độ nước đôi đó đâu, họ sẽ can thiệp để ngăn chặn. Những người ghét mình hay gia đình mình sớm muộn gì cũng sẽ tố cáo, vì Giáo luật buộc tín hữu phải theo lương tâm trình báo về người có những ngăn trở để nhận lãnh chức thánh[141]. Và phía người nữ sẽ không giữ kín mãi đâu. Nàng có thể chấp nhận mất người yêu cho Chúa và Giáo hội, chứ không chịu mất trong tay một hay nhiều cô gái khác, và rồi chính nàng sẽ làm ra chuyện, vì muốn dành lại cho mình hoặc “không ăn được thì đạp đổ!” Nếu cả đôi bên đều cùng đi tu thì tới một lúc nào đó lương tâm thức tỉnh, bên nữ sẽ bộc bạch hết với người có trách nhiệm, dù có dặn nhau “sống để dạ thác mang theo,” hoặc biểu lộ ra qua thái độ muốn chiếm hữu – ghen tuông – độc quyền khiến người khác sớm nhận ra. Ma quỉ cám dỗ thường hiện hình nơi người nữ và kẻ cám dỗ không bao giờ trung thành, và kẻ phản bội thường trở nên kẻ thù ác hiểm.

II. LINH MỤC CŨNG LÀ CON NGƯỜI

1. Nhu cầu tình yêu

Nhu cầu là một cái gì cần phải có để làm đầy đủ nhân cách của con người. Nó là một đòi hỏi bên trong cần phải được thỏa mãn một cách phải lẽ, nếu muốn có hạnh phúc trong đời sống. Khi nhu cầu được thỏa mãn thì có sự điều chỉnh thích hợp, còn khi nhu cầu không được thỏa mãn thì có sự điều chỉnh không ăn khớp trong nhân cách. Kết quả của việc không thỏa mãn nhu cầu khiến người ta cảm thấy hụt hẫng, căng thẳng, mất quân bình, không ổn định trong đời sống, ảnh hưởng đến đời sống thiêng liêng và sứ vụ.

Mọi con người đều có một ước nguyện nội tâm và nhu cầu tình yêu, một nhu cầu tâm lý cơ bản. Một trong những thúc đẩy sâu xa nhất của bản tính tự nhiên của con người là yêu và được yêu, vì trái tim con người vừa thiếu lại vừa thừa: thiếu nên khao khát nhận được tình yêu, và thừa nên muốn cho đi. Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi con người. Yêu một người nào có nghĩa là lắng nghe, hiểu biết, thấu cảm, chấp nhận, tôn trọng, quan tâm, và muốn săn sóc người đó mãi mãi. Được yêu có nghĩa là được người khác chọn làm đối tượng đặc biệt của cảm giác yêu mến và thích thú của họ. Được yêu làm cho người ta hạnh phúc, và càng được yêu, người ta càng trở nên tự do hơn để yêu chính mình và yêu những người khác.

Khi nhu cầu tâm lý này không được thỏa mãn, bị bỏ bê, bị lờ đi thì một sự trống rỗng sâu xa phát triển nơi một người, và kết quả là người ấy cảm nghiệm những chán nản, khó chịu, thiếu hạnh phúc, tha hóa, vỡ mộng, cô đơn tác động tiêu cực lên đời sống thiêng liêng và sứ vụ. Do không thỏa mãn nhu cầu yêu thương này, người ta đau khổ vì thiếu dinh dưỡng tâm lý và tình yêu, có thể nhiễm chứng căng thẳng thần kinh, bị stress, cản trở việc tăng trưởng thiêng liêng, và cả các hoạt động của sứ vụ.

Con người cố gắng đáp ứng những nhu cầu tâm lý qua cách ứng xử của mình. Và việc thiết lập tình bạn thân mật sẽ thỏa mãn nhu cầu tâm lý căn bản yêu và được yêu của mình, nhất là tình huynh đệ bí tích của linh mục. Nhưng sự thỏa mãn đó phải được biểu lộ trong bối cảnh của đời sống ơn gọi thánh hiến.[142]

2. Nhu cầu thân mật

Thân mật là một tình cảm đặc biệt đối với một người nào đó. Mọi người cần đến loại thân mật này để sống nhân bản lành mạnh. Tuy nhiên cấp độ của sự thân mật này có thể thay đổi từ người này đến người khác. Con người ai cũng ước mong sự liên hệ này, tức là muốn yêu thương một người nào đó và muốn được người ấy yêu thương mình. Là người độc thân thánh hiến, chúng ta cũng nên thừa nhận rằng chúng ta cũng có những nhu cầu này trong cuộc sống, và những nhu cầu này phải được đáp ứng bên trong bối cảnh đời sống ơn gọi của chúng ta.

Nếu mỗi người chân thành yêu thương người khác và cảm nhận được người khác yêu thương thì nhu cầu kia được thỏa mãn và tình cảm con tim được bảo hòa. Chúng ta nên nhớ rằng tất cả chúng ta đều là những con người bất toàn, chứ không phải những con người hoàn hảo. Chúng ta không thể nói rằng chúng ta đã được giải thoát khỏi mọi nhu cầu này vì chúng ta đã hiến dâng cuộc đời vì Nước Thiên Chúa. Chúng ta không thể nói rằng những nhu cầu này không có ảnh hưởng gì trên cuộc đời chúng ta vì chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi để thi hành sứ mệnh của Người. Hãy nhìn nhận sự kiện chúng ta trước hết là con người, là tín hữu, rồi mới là linh mục, và những nhu cầu nhân bản của chúng ta phải được kiện toàn trong bối cảnh đời sống ơn gọi thánh hiến của chúng ta.

Trước Vatican II, sự quen thân và tình bạn thân mật chỉ được chia sẻ với Chúa Kitô, chứ không được chia sẻ với bất cứ con người nào khác. Nhưng sau Vatican II, người ta hiểu rằng chúng ta không được lơ là thân mật với Chúa, nhưng đồng thời được khuyến khích cũng thân mật với con người. Quả thế, Hiến Chế Mục Vụ Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay, Vui Mừng và Hy Vọng, nói: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ… Họ phải cảm thấy thực sự liên hệ mật thiết với loài người và lịch sử nhân loại.[143]

Đôi khi chúng ta chia ra từng ngăn đời sống bằng cách nói rằng chúng ta, những linh mục và tu sĩ, phải kính mến một mình Thiên Chúa thôi, con người không được xen vào: “… Người không kết bạn thì chuyên lo việc Chúa và tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người kết bạn thì lo lắng việc đời và tìm cách làm đẹp lòng bạn mình, thế là bị phân chia.[144] Nhưng thánh Gioan Tông Đồ nhấn mạnh tính cách quan trọng của lòng kính mến Chúa và yêu thương cận nhân: “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?[145] Ngài nói tiếp: “Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo”… “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.”[146]

Vậy mệnh đề trái tim không phân chia không làm tương phản liên hệ hay tình yêu của người tín hữu cũng như của người độc thân thánh hiến đối với Thiên Chúa và tha nhân, đúng hơn nó biểu thị phẩm tính của mối liên hệ tình yêu nơi người tín hữu và người độc thân thánh hiến: Người tín hữu chọn một người phối ngẫu, còn người độc thân thánh hiến chọn cho mình chính Chúa Kitô và nhiệm thể của Ngài. Qua giáo huấn “Thần học về thân xác” của thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II, thường được xem như cái gì đó cho đôi vợ chồng kết hôn, nhiều linh mục và tu sĩ nhận ra những điểm nhấn mới trong ơn gọi độc thân của họ, vì họ cũng giống như những người đã kết hôn phải sống giao ước hôn nhân, chung thủy với vợ hay chồng mình, họ phải giữ giao ước nhiệm hôn với Chúa mà sống chung thủy trọn vẹn cho Thiên Chúa và các linh hồn.[147]

3. Các loại thân mật của linh mục

a. Thân mật không dành riêng

Thân mật dành riêng là tập trung vào một người duy nhất, có khả năng dẫn đến ứng xử sinh dục. Sự thân mật của linh mục phải luôn luôn là không dành riêng, bởi vì tình yêu của linh mục luôn phải mở ra đối với mọi người. Sự thân mật dành riêng là kẻ thù đối với sự thân mật của linh mục.

b. Thân mật không sở hữu

Người đang yêu thường muốn sở hữu đối tượng. Ghen tương là khuynh hướng sở hữu trong thân mật. Ghen tuơng nổi lên là kết quả của so sánh giữa mình với người nào đó. Không có so sánh thì không có ghen tương. Không có ghen tương là không có sở hữu. Timothy Radcliffe chỉ ra rằng người thánh hiến giúp đỡ người khác mà không tìm cách sở hữu, nhờ đó lòng mình sẽ bình an và đời sống thiêng liêng sẽ tiến bộ.

c. Thân mật có chọn lựa

Linh mục được mời gọi yêu thương mọi người, sống thân mật với mọi người. Do đó sự thân mật của linh mục có tính cách chọn lựa, song chọn lựa ở đây có nghĩa là chọn mọi người. Nếu chỉ một người thôi thì đó là thân mật dành riêng, nhưng thân mật dành riêng không có chỗ trong đời sống linh mục, nhất là đối với người khác phái.

d. Khoảng cách và sự riêng tư

Trong sự thân mật, linh mục phải giữ khoảng cách trong một số liên hệ, để duy trì tình bạn với những người khác và giữ sự riêng tư cho mình. Chính sự riêng tư và tín cẩn giúp linh mục sống tốt sứ vụ của mình (tòa trong).

e. Độc lập trong thân mật

Dấu hiệu của sự trưởng thành trong liên hệ là tính cách độc lập. Quá tùy thuộc vào người khác hay bắt buộc người khác quá tùy thuộc vào mình trong thân mật cũng là dấu hiệu của sự thiếu trưởng thành, vì nó dẫn đến thái độ bất cập hoặc thái quá.

f. Đụng chạm và thân mật

Khả năng đụng chạm là một hồng ân Chúa ban và sự thân mật của người thánh hiến không đòi đụng chạm thể lý, dù không loại trừ hay ngăn ngừa. Nhưng nên nhớ rằng đụng chạm thể lý có thể dẫn tới ứng xử sinh dục, dù đụng chạm không sinh dục là điều có thể trong thân mật của người thánh hiến (ĐTC ôm trẻ nhỏ, người bệnh, khuyết tật…).

g. Đối đầu trong thân mật

Đối đầu là một lời mời gọi xét mình, kiểm điểm đời sống, thay đổi cách sống, cách hành xử… Nó diễn tả tình yêu và sự quan tâm nhằm thăng tiến người kia. Cần lưu ý rằng rất thường chúng ta thấy đối đầu với người mà chúng ta không thích thì dễ, còn đối đầu với những người chúng ta yêu mến thật khó, vì hay vị nể và sợ mất lòng. Do đó, đối đầu trong thân mật của người thánh hiến rất quan trọng để lớn lên, không những trong tình bạn mà còn trong con đường lý tưởng [“Đừng, đừng, Chúa không muốn thế,” Maria Goretti nói khi người bạn tấn công tình dục mình].

h. Cởi mở trong thân mật

Cần phải cởi mở về sự thân mật chúng ta đang có cùng ai đó với Chúa, với cha giải tội, với vị linh hướng, với bề trên và bạn thân. Trong những thời gian khủng hoảng tình cảm, chúng ta nên chia sẻ những khó khăn của chúng ta với một người tín cẩn nào đó để có được sự giúp đỡ thích hợp của họ, vì việc người thì sáng, việc mình thì quáng.

i. Trung thành với ơn gọi

Khi lớn lên trong sự thân mật với Chúa Giêsu, với Giáo hội, với các linh hồn và với thừa tác vụ của mình, chúng ta cũng lớn lên trong sự mộ mến ơn gọi linh mục. Tình huynh đệ linh mục cho chúng ta nghị lực tâm lý và thiêng liêng để thực hiện thừa tác vụ của mình tốt hơn và sống xứng ơn gọi của mình.

Nhờ đời sống cầu nguyện, hiệp nhất với Chúa Kitô và tình huynh đệ chân thành, chúng ta có thể giữ gìn cách hân hoan và trọn vẹn đời sống độc thân linh mục của mình. Cùng với Hội Thánh, chúng ta phải khiêm tốn và kiên định cầu nguyện cho ơn trung thành và sử dụng mọi trợ giúp siêu nhiên cũng như tự nhiên, đặc biệt là lối thực hành khổ chế đã được trải nghiệm và chấp nhận trong Hội Thánh, dù ngày nay người ta sợ sống khổ chế và ngại nói đến khổ chế để khỏi bị coi là “lạc hậu.”

4. Nhu cầu hạnh phúc

Con người luôn khao khát hạnh phúc, tìm kiếm hạnh phúc và dừng lại để thụ hưởng hạnh phúc, từ hạnh phúc cao khiết của tinh thần cho đến cảm khoái vật chất và nhục dục. Nhưng không bao giờ con người cảm nhận được thỏa mãn hạnh phúc trọn vẹn ở trong những sự đời này. Từ chỗ đó, con người đi tìm hạnh phúc vĩnh cửu và bắt gặp được Thiên Chúa. Thánh Augustinô, sau một cuộc đời lầm lạc lăn lộn tìm kiếm hạnh phúc trong tình đời thế gian, đã cảm nghiệm sâu sắc điều đó và đã nói lên trong cuốn Tự Thú: “Linh hồn tôi khắc khoải cho đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa.”

Trong cuộc tiếp kiến ngày 6/10/2010, khi giới thiệu cuộc đời thánh nữ Gertruđê, ĐTC Biển Đức XVI nói về nhu cầu hạnh phúc này như sau: “trung tâm đời sống hạnh phúc đích thật là tình bạn với Chúa Giêsu. Tình bạn đó chúng ta học được trong lòng yêu mến Kinh Thánh, yêu mến phụng vụ, trong đức tin sâu đậm và trong tình yêu đối với Mẹ Maria, để ngày càng hiểu biết chính Thiên Chúa một cách đích thực hơn. Đó là hạnh phúc thật và là đích điểm cuộc sống của chúng ta.”[148] Và Ngài cũng nhấn mạnh rằng “tình yêu đối với Chúa Kitô là chìa khóa của hạnh phúc đích thực… cầu xin Chúa cho chúng ta hiểu Ngài yêu thương chúng ta dường nào và hạnh phúc đích thực nảy sinh từ một tình yêu đích thực đối với Ngài như thế nào![149] Đức ông Rossetti trả lời phỏng vấn của Zenith minh họa cho khẳng định đó[150].

Các linh mục thuộc nhóm những người hạnh phúc nhất? Một số nghiên cứu ở Mỹ phát hiện khoảng 90% các linh mục nói rằng họ hạnh phúc. Trong cuộc khảo sát với 2.500 linh mục, tỉ lệ này cao tới 92,4%. Các yếu tố dự báo mạnh mẽ nhất cho hạnh phúc của linh mục là sự “an bình nội tâm.” Nếu chúng ta cảm thấy an bình nội tâm thì cũng cảm thấy được hạnh phúc với những gì xung quanh. Nhưng đây cũng là một thách đố: Nếu chúng ta không hạnh phúc với cuộc sống của mình thì đừng chỉ trích bên ngoài, nhưng hãy nhìn vào nội tâm chúng ta. Yếu tố dự báo mạnh mẽ nhất của an bình nội tâm là mối quan hệ của ta với Thiên Chúa. Khi ta có mối quan hệ vững chắc với Thiên Chúa, ta sẽ có an bình nội tâm. Chúa Giêsu hứa ban cho chúng ta ơn này: “Thầy để lại bình an của Thầy cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em.” Chúng ta chỉ tìm thấy sự bình an đích thực và lâu dài trong Thiên Chúa. Đời sống thiêng liêng của chúng ta là một đóng góp mạnh mẽ cho an bình nội tâm lẫn hạnh phúc cá nhân. Chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy an bình nội tâm và niềm vui cho đến khi thực sự có mối quan hệ cá nhân với Thiên Chúa. Hầu hết các linh mục đã tìm thấy mối quan hệ như vậy, và họ là những người đàn ông hạnh phúc.

Vai trò của các mối quan hệ liên nhân vị trong hạnh phúc của linh mục? – Yếu tố góp phần vào mối quan hệ tích cực với Thiên Chúa là có các người bạn thân. Việc phát triển mối quan hệ lành mạnh với người khác giúp chúng ta kết nối với Thiên Chúa. Nhiều lần Phúc Âm đã nói về việc mến Chúa yêu người như là hai mặt của một thực tại: “Người nào không yêu thương anh em mà mình nhìn thấy thì không thể yêu Chúa mà mình không nhìn thấy.” Kết quả thống kê đã khẳng định giáo huấn Tin Mừng này: yêu thương người lân cận và xây dựng mối quan hệ bác ái với bạn bè, gia đình và người lân cận giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa, và ngược lại. Điều này thật quan trọng để trở thành người hạnh phúc. Sự cô lập gây ra bất hạnh. Cần phải liên kết với các người khác. Điều đáng mừng là trên 90% các linh mục báo cáo là có tình bạn vững chắc với các linh mục khác và giáo dân. Con số các linh mục hạnh phúc đã gia tăng, và có thể sẽ tăng lên cao hơn, chỉ có 3,1% linh mục đôi khi nghĩ đến việc rời khỏi chức linh mục.

Đời sống độc thân liên quan đến hạnh phúc của linh mục thế nào? – Linh mục nào cảm thấy được Thiên Chúa kêu gọi sống đời độc thân và cảm nghiệm sống đời độc thân như là một ân sủng cá nhân, bất chấp những thách đố của nó, thì họ là người đàn ông hạnh phúc. Thật vui là trên 75% linh mục đã thấy đời độc thân là một phần tích cực của cuộc sống họ. Tỉ lệ này có khả năng tăng cao hơn trong tương lai. Chính các linh mục trẻ tuổi nhất là người mạnh mẽ ủng hộ việc sống độc thân bắt buộc. Nhưng đây là một thách thức: chấp nhận việc sống độc thân như là một phần cần thiết của đời sống linh mục đòi hỏi một mức độ sâu sắc hơn về tâm linh để cảm nghiệm đời độc thân như một ơn ban của Thiên Chúa, và là một ân sủng cá nhân.

 

 

 

III. SỰ TRƯỞNG THÀNH TÌNH CẢM

1. Trưởng thành tình cảm là gì?

Trưởng thành tình cảm là sự hòa điệu giữa trí óc và con tim: Trí Óc (Lý trí) là phía hữu lý của con người, là khả năng suy nghĩ hợp lý, khả năng theo đuổi mục đích, khả năng lấy quyết định, khả năng điều chỉnh với thực tại (đối với Freud, đây là “tiến trình đệ nhị”). Trong khi Con Tim (Tình cảm) là phía cảm xúc của con người, là các cảm nhận, các nhu cầu, các ước vọng, các thúc đẩy, các giấc mơ (đối với Freud, đây là “tiến trình đệ nhất”). Sự hòa điệu hay hội nhập giữa hai chiều kích căn bản đó của con người mang lại bình an nội tâm, và đến phiên nó, sự bình an nội tâm này tạo nên sự bình an với tha nhân và khả dĩ hòa điệu với thực tại.

2. Những biểu hiện của người thiếu trưởng thành

Trước hết, người thiếu trưởng thành tỏ ra hấp tấp, bốc đồng: Bộc lộ tình cảm ra bên ngoài và hành động theo sự thúc đẩy bản năng, không tự chủ thích đáng, xử sự như một đứa trẻ con; coi sự thỏa mãn các ham muốn là nhu cầu ưu tiên; thiếu tự chủ, không kiềm chế cơn giận bùng nổ hay những đòi hỏi của giới tính; không kiểm soát được các nhu cầu và cảm xúc. Việc này có thể dẫn đến xung đột với tha nhân và xã hội, nếu các hành động do bản năng tác hại cho người khác; hoặc xung đột trong bản thân mình, nếu thái độ ứng xử là không thể chấp nhận được đối với lương tâm mình hay ý thức tự trọng.

Thứ hai, người thiếu trưởng thành tỏ ra cứng cỏi, khắt khe do bị ức chế vì sử dụng thái quá cơ chế tự vệ để che đậy chính mình và kẻ khác cái mà mình không thích, liều mình đánh mất tính tự phát thích thú.

Sự thiếu trưởng thành này thường biểu hiện ra nơi mối tương quan:

Đối với bản thân, người thiếu trưởng thành tỏ ra phòng vệ thái quá, luôn cảm thấy mình bị coi thường; phản ứng mạnh không thích hợp làm tình hình căng thẳng; thiếu xác tín cá nhân; cẩu thả và thiếu xác thực trong cuộc sống và các nhiệm vụ hằng ngày; cảm thấy trống rỗng và chán ngán thường xuyên.

Đối với tha nhân, người thiếu trưởng thành sống trong thế giới khép kín của riêng mình; có khuynh hướng đánh giá thấp kẻ khác và nhìn họ cách tiêu cực, nhất là khi quá lý tưởng hóa bản thân, dùng mánh khoé lôi kéo kẻ khác cho mục đích tập trung của mình; khi không vừa ý thì tính cáu kỉnh trẻ con làm cho co mình lại, nhưng dễ có khuynh hướng lý tưởng hóa các khuôn mặt quyền bính và đồng hóa với họ.

Đối với thực tại, người thiếu trưởng thành không có khả năng đối phó cách xây dựng với thực tại; thường xuyên thiếu óc tập trung; không có khả năng kiên trì trong nhiệm vụ, trừ khi được thường xuyên hướng dẫn hay giám sát.

3. Tiến đến sự Trưởng Thành Tình Cảm

a. Bốn đường lối bảo vệ chính mình

Phủ nhận: Người ta thường dùng đường lối phủ nhận để gạt bỏ sự có mặt của mối đe dọa hoặc tính nghiêm trọng của nó, không để nó ảnh hưởng lên cuộc đời mình. Biết người ta yêu mình nhưng làm như không biết, hay mình yêu người ta nhưng không nói ra (đôi khi muốn nói yêu ai nhưng mà ngại ngùng đành lãng phai). Luôn suy nghĩ tích cực để nhìn thấy khía cạnh thú vị của cuộc đời, nhờ đó mà thấy được bầu trời sáng bạc sau đám mây: trong cái rủi vẫn có cái may, trong cái xấu vẫn còn cái tốt, trong cái sai vẫn còn có cái đúng.
Trốn chạy: Đối với mối đe dọa quá nghiêm trọng, người ta sử dụng đường lối trốn chạy để chạy trốn khỏi nó, và trốn đi càng xa càng tốt nếu có thể (tam thập lục kế, vi tẩu thượng sách; con chim nhát là con chim sống). Có khi do cảm nhận sự không an toàn trong tâm hồn được phóng chiếu ra nơi thực tại bên ngoài khiến người ta sợ và phải tránh nó (tránh gặp mặt người nọ kẻ kia)…
Chiến đấu: Thay vì chạy trốn thì chuẩn bị chiến đấu: biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Dùng sự hiểu biết để kiểm soát nỗi lo âu và bất cứ cái gì nó gây nên, chẳng hạn đọc nhiều về thần học luân lý để không mắc lỗi, phạm tội. Tìm hỏi ý kiến những người khôn ngoan từng trải để được an toàn, hoặc để nỗ lực kiểm soát làm chủ tình hình.
Mỉm cười: Như cây tre đong đưa theo gió, người ta làm cho mình ra mềm mại để tránh bị nghiền nát; hoặc cư xử như trẻ con để tránh xung đột hay để tránh thách đố. Người ta mỉm cười trước những mối đe dọa và tránh những cuộc tấn công bởi tính cương quyết nhưng dịu dàng, không thách thức nhưng khêu gợi tinh thần cao thượng của đối phương.

b. Tiêu chuẩn đánh giá sự trưởng thành

Người ta dựa vào bốn dữ kiện này tự ý thức – tự hiểu mình – tự chấp nhận mình – tự thay đổi và tự do quyết định để đưa ra các tiêu chuẩn đánh giá:

· Thái độ đối với bản thân: Tinh thần cởi mở và hiểu biết chính mình (ngược lại tinh thần phòng vệ); sự kiểm soát mềm dẻo trên các nhu cầu, cảm xúc, các thúc đẩy (ngược lại tính bốc đồng hấp tấp); giá trị cam kết; cách

 

· ứng xử có dự đoán trước, không khắt khe cứng cỏi và căng thẳng quá đáng.

· Thái độ đối với tha nhân: Khả năng yêu thương, vừa tình cảm vừa hữu hiệu; các mối tương quan tốt với đồng nghiệp; các mối tương quan tốt với người khác phái; thái độ tốt đối với quyền bính; khả năng lãnh đạo.

· Thái độ đối với thực tại: Xét đoán phân minh; khả năng làm việc tốt; ý thức hài hước

c. Các chuẩn mực của người trưởng thành

Một nhóm các nhà phân tâm học liệt kê các yếu tố của sức khoẻ tinh thần của con người như sau: Sự phấn khởi, hoan hỉ; tinh thần thanh thản lạc quan; khả năng vui thích làm việc; khả năng vui thích giải trí; khả năng yêu thương; khả năng đạt tới mục đích; khả năng kiềm chế cảm xúc; tự biết mình cách sâu sắc; trách nhiệm xã hội; phản ứng thích hợp với mọi cảnh huống, nhờ chúng mà:

·      Mở rộng ý thức về bản thân: Tham gia vào nỗ lực nhân loại định hướng cho cuộc sống; không lấy cái tôi của mình làm trung tâm.

·      Liên kết bản thân với tha nhân: sống thân mật với tha nhân, đồng thời thanh thoát khỏi khuynh hướng chiếm hữu, nhưng tôn trọng kẻ khác.

·      An toàn tình cảm: có khả năng mang nổi thất bại, chấp nhận lầm lỗi của mình, không phản ứng quá dữ dội lên tha nhân và ngoại cảnh, giữ vững bình tĩnh và không để bị kích động vào những hành động bốc đồng quấy rầy cuộc sống hạnh phúc của tha nhân; bộc lộ các xác

 

tín và cảm nhận của mình trong sự trân trọng các xác tín và cảm nhận của người khác.

·      Nhận thức đúng các kỹ năng, phận vụ: khả năng đánh giá thực tại đúng như nó là, chứ không như mình mong muốn nó trở thành; có những kỹ năng thích hợp để giải quyết các vấn đề khách quan; có khả năng quên mình vì nhiệm vụ quan trọng; gần gũi với thế giới thực, nhìn ra sự vật, con người và hoàn cảnh theo cái mà chúng là.

·            Thể hiện mình cách khách quan: Biết rõ các điểm mạnh và các điểm yếu của mình; luôn có tinh thần hài hước đi cùng, có khả năng coi thường những cái mình yêu thích và vẫn yêu thích chúng; không giả bộ màu mè bề ngoài tỏ ra mình là cái gì đó mà thực ra không thể.

·      Triết lý thống nhất đời sống: có một sự hiểu biết rõ ràng về mục đích của cuộc đời, với một hệ thống ý nghĩa và trách nhiệm, một định hướng giá trị, trong đó các hoạt động chủ yếu của cuộc sống được thực hiện.

·      Nhận thức cao về thực tại và có những liên hệ thoải mái với nó. Người trưởng thành phán đoán về các tình huống và con người cách chính xác; không bị đe dọa và hoảng sợ, khi thiếu sự chắc chắn, sự an toàn, sự chính xác và mệnh lệnh.

·      Chấp nhận bản thân và thiên nhiên: cảm thấy thoải mái với thiên nhiên và bản tính con người; chấp nhận toàn bộ các nhu cầu và tiến trình tự nhiên, không chán ghét, nhưng trân trọng các đức tính làm nên sự trưởng thành nhân bản.

 

·      Sáng tạo tự phát: có khả năng thưởng thức nghệ thuật, thích nghi với thời đại, không câu nệ tập tục, có thể nắm bắt kinh nghiệm tột đỉnh về cuộc đời.

·      Tập trung tinh thần: Làm việc hiệu quả và kiên trì trong những nhiệm vụ khách quan; có thể hy sinh chính mình vì đại nghĩa (vì nước quên thân, vì dân quên mình).

·      Tinh thần thanh thoát: Có sự riêng tư và tự lập trong tình bạn và gia đình, gắn bó nhưng không bám dai dẳng, xâm phạm hay chiếm hữu.

·      Độc lập với văn hóa và môi trường: có khả năng nắm bắt hay loại bỏ thần tượng; dù được nịnh hót hay bị chỉ trích cũng chẳng làm xáo trộn quá trình phát triển căn bản của mình.

·      Tính chất mới mẻ trong việc đánh giá: dễ cảm thụ với kinh nghiệm mới.

·      Chân trời không biên giới: quan tâm tới bản chất tối hậu của thực tại; cảm nhận thần bí và tôn giáo bao la như đại dương.

·      Cảm thức xã hội: có một cảm nhận căn bản về thiện cảm và tình thương, bất kể sự giận dữ hay thiếu nhẫn nại thỉnh thoảng xảy ra. Lòng cảm thông đối với đồng loại là một dấu hiệu của sự trưởng thành.

·      Tương quan xã hội sâu xa và có chọn lựa: có thể có những gắn bó gần gũi cá nhân nhỏ hẹp và sâu xa, nhưng cũng có thể nhẹ nhàng mở ra với những mối liên hệ bên ngoài quỹ đạo này.

 

·      Tinh thần tự do và bao dung: cảm nhận và biểu lộ lòng kính trọng đối với bất cứ người nào chỉ vì đó là một cá vị con người; lòng độ lượng trong lãnh vực đạo đức và tôn giáo cũng được thể hiện.

·      Sự chín chắn đạo đức: biện phân rõ sự khác biệt giữa cái đúng và cái sai trong cuộc sống thường ngày; không lẫn lộn phương tiện và mục đích; cương quyết theo đuổi cho bằng được những mục đích mà mình thấy là đúng.

·      Tính hài hước thân thiện: Không chơi chữ, giễu cợt hay mưu kế thù nghịch, nhưng tự phát hài hước.

·      Tính sáng tạo: Phong cách sống có sức mạnh thuyết phục và một cá tính gây ấn tượng trên bất cứ cái gì mình làm.

Tóm lại, trưởng thành tình cảm không phải là một tình trạng tĩnh, mà nó có thể mang lấy nhiều hình thức khá khác biệt tùy theo lịch sử của mỗi người. Nó là một sức năng động hòa nhập và biến hóa của mối liên hệ tình cảm với một người và dần dần thiết lập được những biên giới ổn định và cảm nhận mình giữ được một chỗ an toàn nơi đó mình tỏ ra đáng yêu. Một chỗ trương ra giữa nhiều mâu thuẫn, vừa thụ động vừa chủ động (vừa nhận lãnh từ người khác vừa trao ban cho người khác), vừa tùy thuộc vừa độc lập (vừa lắng nghe vừa đáp lại yêu cầu của người khác). Người trưởng thành tình cảm là người đã tập quen trong tĩnh lặng giữ trọn chỗ của mình và không gì khác ngoài trách nhiệm của mình.

Đây là những dấu hiệu đặc trưng cho sự trưởng thành tình cảm: khả năng sống tự tin và gây tín nhiệm, dù ở một mình hay với cộng đoàn, không ngây thơ, sẵn sàng chịu thất vọng, chấp nhận những xung đột, khả năng phản tĩnh cho phép biện phân và hài hước khi có thể, nhất là một kinh nghiệm sống hỗ tương, có thể bị người khác tác động và chia vui sẻ buồn với người đó.

Lòng tự trọng rất quan trọng trong việc xây dựng và đào luyện sự trưởng thành tình cảm, bởi vì luôn ở trong và nhờ gặp gỡ nhiều niềm vui và đau khổ mà ta có thể hiểu được chính mình để tiến bộ. Cần lưu ý đến hai yếu tố có thể phá hủy sự trưởng thành tình cảm, một là sự lý tưởng hóa quá mạnh, hai là một sự cứng nhắc và khép kín quá lớn đối với nỗi sợ hãi về các cảm xúc riêng của mình; và điều đó cũng đúng cho người sống đời độc thân cũng như cho người sống đời đôi bạn.[151]

(Con xin theo Ngài mãi mp3)


Bốn

ĐỂ TÌM LẠI CON ĐƯỜNG SỐNG TỐT ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ LINH MỤC

I. Linh Mục Tự Do Tự Nguyện Sống Luật Độc Thân

Trong xã hội tục hóa hôm nay, ảnh hưởng của tinh thần tôn sùng vật chất đang thao túng mãnh liệt. Địa vị, danh vọng, tiền bạc và lạc thú được đại đa số xem như là tất cả hạnh phúc của con người. Sự phóng túng tình dục và chủ nghĩa hưởng lạc cuốn hút bao trái tim và đầu óc, nhất là của người trẻ. Do đó, độc thân khiết tịnh, nhất là nơi giới đàn ông, bị nghi ngờ và coi là không thể.

Nhưng đối với Giáo Hội Công giáo Rôma, đời sống độc thân linh mục là một thực hành bắt buộc rất cựu trào dựa vào truyền thống Tông Đồ, chẳng hạn vào thế kỷ IV, Công Đồng Carthage (năm 390) đã nói: “Những người phục vụ các mầu nhiệm thánh phải hoàn toàn tiết dục hầu cho những gì các Tông Đồ đã giảng dạy và người xưa gìn giữ thì nay chúng ta cũng tuân giữ nó.” Từ Công đồng Latêranô I (1123), luật độc thân được áp dụng trong Giáo Hội Công Giáo đối với mọi linh mục theo lễ nghi Latinh. Công đồng Trentô (1543) là một cuộc canh tân thiêng liêng sâu xa và bền bỉ về chức linh mục và thừa tác mục vụ của linh mục.

Thời đại chúng ta chứng kiến nhiều cuộc tranh luận về vấn đề kỷ luật này. Một số người đã cho rằng chẳng mấy hữu lý khi đòi buộc những người sẽ chịu chức linh mục phải sống bậc độc thân; họ vịn cớ cả Chúa Giêsu lẫn thánh Phaolô không trình bày bậc độc thân như là một thực hành bắt buộc đối với các môn đệ. Một ít người còn đi xa hơn nữa đổ lỗi cho bậc độc thân phải chịu một phần trách nhiệm về cuộc khủng hoảng ơn gọi linh mục và những gương mù giới tính đã xảy ra tại nhiều nước Bắc Mỹ và Âu Châu[152].

Dù vậy, qua Sắc lệnh Chức vụ và Đời sống linh mục của Công đồng Vatican II, Giáo Hội vẫn duy trì truyền thống không thay đổi, và nhấn mạnh đặc biệt đến mối liên hệ chặt chẽ giữa độc thân khiết tịnh và đức ái mục tử vì Nước Trời của chức linh mục thừa tác của linh mục.[153] Đức Phaolô VI trong Sacerdotalis Coelibatus khẳng định: “Luật độc thân thánh, mà Giáo Hội canh giữ từ nhiều thế kỷ nay như một viên ngọc quý rạng ngời, bảo tồn toàn bộ giá trị của nó cả ở thời đại chúng ta vốn tiêu biểu bằng một sự biến đổi sâu xa các não trạng và các cơ cấu[154]. THĐGMTG năm 1971 khẳng định sự cần thiết phải duy trì luật độc thân linh mục trong Giáo Hội Latinh, với việc giải thích nền tảng, các động cơ và điều kiện ủng hộ nó mà linh mục thi hành với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô[155].

Bộ Giáo luật 1983 lặp lại: “Các Giáo sĩ buộc phải giữ tiết dục hoàn toàn và vĩnh viễn vì Nước Trời, và vì thế phải tuân giữ luật độc thân, ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban, nhờ đó các thừa tác viên chức thánh có thể kết hiệp dễ dàng hơn với Đức Kitô bằng một tâm hồn không chia sẻ, tự hiến trọn vẹn và tự do hơn cho việc phục vụ Chúa và con người[156].

Tông huấn hậu THĐGMTG Pastores Dabo Vobis trình bày luật độc thân như một đòi hỏi căn bản trong toàn cảnh bốn chiều kích đào tạo nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục vụ.

Sách Giáo lý Công giáo số 1599 lặp lại: “Trong Giáo Hội Latinh, thường chỉ truyền chức linh mục cho các ứng viên tự nguyện sống độc thân và công khai biểu lộ ý muốn này vì yêu mến Nước Trời và phục vụ tha nhân.

Trong cuộc họp với lãnh đạo các Bộ của Giáo triều ngày 16/11/2008, ĐTC Biển Đức XVI đã tái khẳng định giá trị của chọn lựa đời sống độc thân của các linh mục, hợp với truyền thống Công Giáo chưa bị gián đoạn và lập lại đòi buộc phải có một đào tạo nhân bản và Kitô giáo vững vàng, cho cả các chủng sinh lẫn các linh mục đã chịu chức.

Chỉ Nam cho thừa tác vụ và đời sống linh mục năm 1994 của Bộ Giáo sĩ khẳng định: “Xác tín vào những động cơ thần học và mục vụ sâu xa làm cơ sở cho mối tương quan giữa sự độc thân và chức linh mục, được soi sáng bằng chứng tá còn giá trị ngày hôm nay của rất nhiều cuộc đời linh mục vững mạnh về mặt thiêng liêng và Phúc Âm, mặc dầu xảy ra nhiều trường hợp đau thương, Giáo Hội đã tái xác nhận, qua Công đồng Vatican II và giáo huấn của các Giáo hoàng về sau, ‘ý muốn mãnh liệt duy trì luật đòi buộc tình trạng độc thân vĩnh viễn tự do chọn lựa cho các ứng viên linh mục theo nghi lễ Latinh,[157] xác tín rằng đó là ân huệ mang lại thiện ích cho Giáo Hội và thế giới.[158]

Từ thời các tông đồ, Giáo Hội đã muốn bảo tồn ơn tiết dục vĩnh viễn của giáo sĩ và hướng về giải pháp chọn ứng viên chức thánh nơi những người độc thân.[159] Sự dấn thân ơn gọi linh mục được lựa chọn cách tự do và quảng đại là lời đáp trả hồng ân quảng đại của Thiên Chúa.[160] Và thực tế hiện nay, để được thụ phong linh mục, ứng viên chức thánh phải lớn tiếng tuyên hứa với Giám Mục chủ phong trước mặt cộng đoàn vâng lời Giám Mục Bản Quyền và sống độc thân linh mục.

Độc thân linh mục được ghi tạc ngay tại nội tâm của một tương quan đối thoại liên lỉ giữa Thiên Chúa và mỗi linh mục. Qua việc cho đi chính đời sống mình bằng cách chọn đời sống độc thân, linh mục càng ngày càng sống cho Thiên Chúa và tha nhân hơn, lột bỏ liên lỉ như một sự “tự hủy” (Ph 2,7), làm cho mình “nhỏ bé đi để cho Chúa lớn lên” (Ga 3,30) và góp phần vào sự tăng trưởng của Giáo Hội. Độc thân linh mục không thể tách rời khỏi toàn bộ đời sống kitô “không còn là tôi sống, nhưng chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gal 2,19-20), và linh mục luôn cố gắng nên đồng hình dạng với Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành “ban sự sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).

Chính trong khung cảnh đó mà sự tự do của linh mục không ngừng được củng cố và trưởng thành để luôn sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa và dân Ngài. Chấp nhận sống độc thân, linh mục gặp được kho báu hàm chứa việc “mang trong thân xác sự chết của Chúa Giêsu, để sự sống của Ngài cũng được bày tỏ trong thân xác mình” (2 Cr 4,10), nhờ đó học biết ban phát sự sống mình cho đoàn dân được trao phó cho mình, được thúc đẩy loan báo Tin Mừng “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm 4,2).

Mỗi thời đại diễn tả và thực hành đức tin trong não trạng văn hóa riêng và tùy theo mức độ được đâm rễ chắc chắn trong Truyền Thống mà chúng ta sống nhờ đó. Giáo huấn của Giáo Hội cung cấp cho linh mục những căn bản cần thiết để suy nghĩ và định hình lời đáp trả của mình với hồng ân của Thiên Chúa trong bậc độc thân. Cuộc sống độc thân khiết tịnh tự bản chất là liên hệ, liên hệ với Thiên Chúa, liên hệ với con người và thế giới. Nó định phẩm căn tính linh mục là một con người của liên hệ, nhất là với Giám Mục và linh mục đoàn giáo phận mình. Nó mời gọi linh mục nhận rõ sự bổ túc của mình với các bậc sống khác và những mối liên hệ mình phải duy trì với họ. Nó cũng cho phép linh mục thiết lập các liên hệ nhân bản, kể cả các liên hệ bạn hữu chân chính với người nam lẫn người nữ.

Giáo Hội Công Giáo La mã tin rằng các linh mục không nên kết hôn dựa trên những đoạn văn trong Kinh thánh, và bởi vì niềm tin linh mục là Alter Christus và hành động in Persona Christi nên cũng phải sống độc thân như Chúa Kitô. Thánh Gioan Phaolô II và ĐGH Bênêđíctô XVI tái khẳng định như vậy, và ĐTC Phanxicô trong cuốn sách Trên Trời và Dưới Đất (On Heaven and Earth) cũng nói: “Tôi ủng hộ việc duy trì độc thân linh mục. Qua mười thế kỷ kinh nghiệm cho thấy độc thân linh mục có nhiều điều tốt hơn là khuyết điểm[161].

Nói cách khác, nhờ đời sống độc thân thánh thiện, linh mục thực sự trở nên người của Thiên Chúa[162] người cho con người, qua những điểm giáo huấn nổi bật sau đây:[163]

Sống độc thân linh mục là một cách thức yêu mến và hiện hữu với tha nhân. Nó khai mở một cuộc sống không đóng kín nơi chính mình, nhưng khai sáng những liên hệ và đời sống cộng đồng, tôn trọng phẩm giá những người mình gặp gỡ, kêu gọi mọi người cùng nhau tìm kiếm sự thánh thiện và làm cho Nước Chúa ngự đến.

Sống độc thân khiết tịnh hệ tại sự dấn thân tất cả cuộc đời: Nhờ bí tích Truyền Chức, lời hứa sống độc thân đâm rễ sâu xa vào chính thực thể con người linh mục và phải được nhắc lại trong suốt chiều dài đời sống, đặc biệt trong Lễ Truyền Dầu Thứ Năm Tuần Thánh.

Đời sống độc thân linh mục tìm được tất cả ý nghĩa của nó trong liên hệ với các lời khấn khác, được diễn tả ra hay hiểu ngầm, mang dấu ấn cuộc sống giản dị và hướng tới một đời sống cầu nguyện chuyên cần, vì đây là một hồng ân phải nhận lãnh và làm mới lại không ngừng, khuôn mình cách mật thiết với những mầu nhiệm mình cử hành.

Đời sống độc thân linh mục giả thiết một khổ hạnh, dù ngày nay ít được nhấn mạnh, nhưng vẫn là thiết yếu. Sự thận trọng, dè dặt, tỉnh thức, từ bỏ, chấp nhận mọi thánh giá trong suốt cả đời sống, và những yếu tố khác cùng loại, làm thành bấy nhiêu phương diện của một quan niệm toàn vẹn về cuộc sống độc thân khiết tịnh[164]

Chọn lựa sống độc thân là trao hiến đời sống mình để nhắm tới một sự phong phú đặc biệt.[165] Linh mục chọn sống độc thân phải có một quan niệm lành mạnh về tình phụ tử và danh hiệu “cha” mà những người được trao phó thường gọi mình. Đời sống của ngài phải hoàn toàn quy hướng về sự tăng trưởng của họ trong đức tin, đức cậy và đức mến.

Linh mục càng suy tư và cầu nguyện Thánh Kinh càng thấu hiểu căn bản Phúc âm của bậc độc thân: kỷ luật của Giáo Hội Roma không chỉ thuộc về sự gắn bó với truyền thống lâu đời không hề xa lạ với Thánh Kinh, mà còn mặc lấy một hình thức bắt buộc, cho dù không được đặt định trong Tân Ước. Nhưng bằng nhiều cách, Tân Ước vẫn làm vang lên lời mời gọi vào bậc độc thân linh mục.

Đời sống độc thân linh mục phải tựa trên nền tảng thần học nghiêm chỉnh và sâu xa cho phép hiểu rõ ý nghĩa Kitô học, Giáo hội học, Thánh Kinh học, ý nghĩa hôn ước và tông đồ, cũng như tính “thích hợp” của bậc độc thân với chức vụ linh mục mà sắc lệnh Chức vụ và đời sống linh mục nói đến.

Ngoài ra còn phải lưu ý đến tầm quan trọng của cộng đồng giáo dục như là yếu tố căn bản của việc đào tạo khởi đầu về đời sống độc thân linh mục, nhờ sự phân định và quân bình giữa những thời gian trao đổi và trầm mặc, những chia sẻ giữa chủng sinh và nhà đào tạo, trong sự tương tác với các cộng đồng khác, là những cộng đồng tự nhiên như gia đình hoặc cộng đồng Giáo hội như giáo xứ.

Như thế, độc thân linh mục phải là một chọn lựa dấn thân tự do và tự nguyện được Giáo Hội chuẩn nhận, chứ không phải là một gánh nặng áp đặt từ bên ngoài. Giáo Luật nhắc nhở: “Đương sự phải được tự do hoàn toàn, tuyệt đối không được cưỡng bách bằng bất cứ cách nào và vì bất cứ lý do gì, cũng không được ngăn cản người đủ khả năng xứng hợp theo Giáo luật.”[166] Và kỷ luật độc thân trở nên như một sự che chở bảo vệ và một gánh nhẹ nhàng làm cho linh mục càng được thăng tiến và triển nở,[167] nhờ đó linh mục thống nhất được đời sống nội tâm và hoạt động tông đồ, là điều kiện tất yếu để thành công, hạnh phúc và thánh thiện.

Khi chịu chức thánh, chúng ta đã hứa sống độc thân khiết tịnh[168]. Qua lời hứa ấy, chúng ta ký kết với Chúa một giao ước nhiệm hôn[169] đòi hỏi phải có sự chung thuỷ. Người đàn ông nào cũng muốn nếm trải ngọt ngào nồng ấm của tình yêu và sự âu yếm an ủi khả giác, nhưng chúng ta đã tự nguyện khước từ chúng, để chọn một tình yêu cao cả hơn cho Chúa và các linh hồn. Dù vậy, nếu không bám chặt vào Chúa thì khả năng đi tìm niềm an ủi khả giác sẽ bùng lên, nhất là những lúc gặp phải thử thách buồn phiền, cám dỗ, yếu đuối[170].

Tông huấn Pastores Dabo Vobis đã nhấn mạnh hình ảnh Chúa Kitô như Đấng Phu Quân của Giáo Hội đã ban tặng chính mình cho Giáo hội trong tình yêu[171]. Chúa Kitô là Đầu “đã yêu thương Giáo hội và hiến mình vì Giáo hội, thánh hoá và thanh tẩy Giáo hội bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người là một Giáo hội xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền[172]. Mối quan hệ hôn nhân của Chúa Kitô với Giáo hội là nền móng linh đạo của linh mục, vốn thường “được gọi là hình ảnh sống động của Chúa Kitô, Phu quân của Giáo hội[173]. Đây cũng là nền tảng cam kết của linh mục với đời sống độc thân, trong đó đặc tính hôn nhân của nó lại có tính cách rất tích cực, nhờ đó ngài kết hôn với Giáo hội như Chúa Kitô là hôn phu của Giáo hội. Là thành phần tư tế thừa tác của Giáo Hội, Thân Thể và Hiền Thê của Chúa Kitô, Giám mục tham dự vào hôn ước của Chúa Kitô, được biểu thị qua nghi thức trao nhẫn trong lễ tấn phong Giám mục[174].

Trong bài giảng nhậm chức Tổng Giáo phận Philadelphia ngày 8/9/2011, TGM Charles Chaput đã nói rất hay về cuộc hôn nhân của Giám mục với Giáo phận của mình, từ đó chúng ta cũng suy ra cuộc hôn nhân của linh mục với giáo xứ được ủy thác cho mình. Ngài nói: “Tương quan của một Giám Mục với Giáo Hội địa phương – Giáo Phận của ngài – cũng không khác gì một cuộc hôn nhân. Chiếc nhẫn Giám mục đeo là một biểu tượng tình yêu của Giám Mục đối với Giáo Phận mình… Giám Mục được mời gọi yêu thương Giáo Phận mình với hết cả tấm lòng như Chúa Kitô đã yêu thương và hiến mình cho Hội Thánh…” Cũng thế, được thông phần vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô ở cấp độ thấp, linh mục cũng thông phần một cách nào đó vào chiều kích hôn ước đối với Giáo Hội, nên phải hết lòng yêu mến Giáo Hội bằng cách cống hiến mọi năng lực và tự hiến trong đức ái mục tử đến độ hy sinh chính cuộc sống mình mỗi ngày cho đoàn chiên được trao phó[175].

Đời sống độc thân không phải là phủ nhận hôn nhân, nhưng phải được hiểu trong liên hệ với Nước Trời: Đời sống độc thân có ý nghĩa và sẽ chỉ sinh hoa trái “trong viễn tượng hôn nhân thiên quốc và trong ánh sáng của vương quốc Thiên Chúa”[176]. Trong ý nghĩa này, linh mục được kêu gọi ‘trở nên chàng rể’ dâng tặng toàn thể những gì là mình cho Giáo Hội/Hôn thê của Chúa Kitô và cho vương quốc của Thiên Chúa, như người chồng dâng tặng toàn thể thân xác và tất cả những gì là mình cho vợ[177].

Đời sống độc thân là “một ân huệ quí giá Thiên Chúa ban cho Giáo hội”[178]: linh mục hiến dâng con tim không san sẻ và tính dục của mình cho Thiên Chúa “như dấu chỉ của Nước Trời không thuộc về thế gian này, một dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa cho thế giới và dấu chỉ của tình yêu không san sẻ linh mục dành cho Thiên Chúa và Dân Chúa”. Đời sống độc thân linh mục là “ý muốn của Giáo hội” mà Bí tích Truyền Chức “làm cho linh mục trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô là Đầu và Hôn phu của Giáo hội”. Sự độc thân linh mục “là món quà bản thân diễn tả sự phục vụ của linh mục cho Giáo hội, trong Chúa Kitô và với Chúa Kitô”.

Tính hiệu quả của đức ái mục tử sẽ tùy thuộc nhiều vào sự trung thành của linh mục với lời hứa độc thân. Do đó, lời cầu nguyện là vũ khí hiệu nghiệm nhất để kiên trì trong lời cam kết độc thân thanh khiết, cùng với những bí tích và những thực hành khổ chế của Giáo hội “sẽ đem lại hy vọng trong những khó khăn, tha thứ trong những sa ngã, tự tin và can đảm tái đảm nhận cuộc hành trình này”.

Việc làm chứng nhân cho tình yêu phu phụ của Chúa Kitô đòi hỏi linh mục “có khả năng yêu mọi người với một con tim mới, quảng đại và trong sạch, với sự từ bỏ đích thực, với sự dâng hiến trọn vẹn, thường xuyên, trung thành và đồng thời với một loại ‘ghen tỵ thần linh[179] và thậm chí với tình thương âu yếm của người mẹ, có khả năng “quặn đau sinh ra một lần nữa” cho đến khi “Chúa Kitô được thành hình nơi người tín hữu”[180].

Sự đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô linh hoạt toàn thể cuộc sống và sứ vụ tông đồ của linh mục. Ngài phải nhìn mình theo cách Chúa Kitô đã nhìn bản thân Ngài: Vị Mục tử nhân lành có con tim cháy bỏng bởi lòng yêu thương đoàn chiên và sẵn sàng hy sinh mạng sống cho họ bất cứ giá nào. Đó là đức ái mục tử, là “nguyên tắc nội tại, là sức mạnh tạo sinh khí và hướng dẫn đời sống thiêng liêng của linh mục[181]. Nội dung chính yếu của đức ái mục tử này là “quà tặng tất cả bản thân cho Giáo hội, theo gương mẫu Chúa Kitô”. Quà tặng bản thân này “là nguồn mạch và sức mạnh tổng hợp của đức ái mục tử”, là “một sự lựa chọn yêu thương, nhờ đó Giáo hội và các linh hồn trở thành mối quan tâm hàng đầu của linh mục, nhờ đó ngài trở nên có khả năng yêu mến Giáo hội phổ quát và một phần của Giáo hội được uỷ thác cho ngài với tình yêu sâu xa như của một người chồng dành cho người vợ”.

Mối quan hệ này phát xuất trước hết và trên hết từ sự hiệp thông cá nhân của linh mục với Chúa Kitô và với linh mục đoàn hiệp nhất cùng Giám mục”[182]: “Đức ái mục tử đòi hỏi linh mục luôn làm việc trong mối dây hiệp thông phẩm trật với Giám mục và với các anh em linh mục, nếu không, những nỗ lực của ngài sẽ là vô ích[183]. Đối với linh mục, chiều kích này sẽ có ý nghĩa đặc biệt khi toàn bộ linh đạo của ngài xoay quanh tính thuộc về một linh mục đoàn duy nhất hiệp thông với Giám mục Bản Quyền.

Vậy các biện pháp siêu nhiên, tự nhiên nào giúp chúng ta giữ mình và trung tín với lời hứa sống độc thân khiết tịnh? ĐTC Phanxicô căn dặn: “Khiết tịnh là biểu hiện tâm tình tận hiến duy nhất cho tình yêu của Chúa. Các cám dỗ trong lời hứa này đòi hỏi chúng ta phải khiêm tốn tin tưởng vào Chúa, cảnh giác và kiên định bám trụ vững vàng trên tảng đá của lòng thương xót… Chỉ khi nào chứng tá của chúng ta vui vẻ thì chúng ta mới lôi cuốn được giáo dân đến với Chúa Kitô; niềm vui này là ơn phúc được nuôi dưỡng bằng đời sống cầu nguyện, chiêm niệm Lời Chúa, cử hành các bí tích và sống tình huynh đệ [184]. Và Ngài chia sẻ hành trình sống ơn gọi của ngài: “Sau nhiều năm trôi qua với một số thành công và niềm vui, nhưng nhiều năm thất bại, yếu đuối, tội lỗi…, cha không bao giờ hối tiếc! bởi vì ngay cả trong những lúc đen tối nhất, trong những lúc tội lỗi, trong những lúc yếu đuối, trong những lúc thất bại, cha luôn luôn nhìn vào Chúa Giêsu, tín thác vào Người, và Người đã không bỏ cha một mình. Người luôn luôn tiến bước là bạn đồng hành trung thành với cha”[185].

Còn chúng ta? Chúng ta đừng để mắc lừa ma quỉ qua một trào lưu trong giới truyền thông Tây phương mô tả luật độc thân linh mục như một đòi hỏi “vô nhân đạo” và “vô lý” của Giáo Hội Công Giáo đối với hàng giáo sĩ. ĐHY Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh hôm 6/2/2016 tại Hội Nghị về Luật Độc Thân Linh Mục đã lên tiếng mạnh mẽ chống lại rằng “cuộc sống độc thân, không phải là một đòi buộc vô nhân đạo, nhưng cho phép linh mục phục vụ Chúa với một trái tim tự do và không phân chia, chuẩn bị cho ngài một cách thế đặc biệt để dâng hiến cho Đức Kitô, và khiến ngài tự do hơn cho sứ mệnh linh mục của ngài[186].

ĐHY Claudio Hummes lúc còn là Tổng Trưởng Bộ Giáo Sĩ đã nhận định lạc quan, hy vọng và đầy an ủi: “tuyệt đại đa số các linh mục là những người rất xứng đáng, toàn tâm toàn ý cho thừa tác vụ linh mục, những người chuyên tâm cầu nguyện và làm việc bác ái mục vụ, đặt cả cuộc đời vào việc thực hiện ơn gọi và sứ mệnh của mình… Giáo Hội muốn nói trước hết với các linh mục rằng Giáo Hội hãnh diện biết bao về các linh mục của Giáo Hội; Giáo Hội yêu mến, tôn kính, ngưỡng mộ họ dường nào và nhìn nhận với lòng tri ân công tác mục vụ của họ và cuộc đời chứng nhân của họ[187]. Nguyện xin Chúa Thánh Thần tiếp tục cho đến kiện toàn những gì Ngài đã thương khởi sự ho chúng ta, với chúng ta và qua chúng ta cho nhân loại.

II. Vượt Lên Khủng Hoảng Để Xây Dựng Tình Huynh Đệ Bí Tích Đích Thực

Là linh mục, điều quan trọng là chúng ta nên có những bạn linh mục, bởi khi cùng chia sẻ với các bạn linh mục khác và luôn gắn bó với họ, chúng ta mới thật sự và trọn vẹn là chính mình. Thật là một phúc lành khi có những phút giây quên đi những gánh nặng và ở bên những anh em thân yêu của mình, mà không có chút gì là mưu mẹo hay khó xử. Cần được báo động khi biết rằng có một số linh mục không thích các linh mục khác, và cũng không cảm thấy thích thú gì khi có dịp quy tụ lại với nhau. Đó là điềm báo trước không mấy tốt lành cho những linh mục đó.

Thường hễ có chung thì có đụng, có đụng thì hẳn có đau; khủng hoảng tình huynh đệ là một mảng tối trong đời sống và sứ vụ linh mục của chúng ta, năng xảy ra nhất giữa cha sở – cha phó, cha xứ cũ – cha xứ mới. Thánh vịnh gia nói: “Giả như tên địch thù phỉ báng, thì tôi cũng cam lòng, hay kẻ ghét ghen lên mày lên mặt, tôi có thể lánh đi. Nhưng đây lại là bạn, người đồng vai đồng vế, chỗ thân tình tâm phúc với tôi, đã cùng tôi chia ngọt sẻ bùi, trong đền Thiên Chúa, giữa hội vui cùng sánh bước”[188]; “Tên phản phúc ra tay hại người thân nghĩa, lại lỗi ước quên thề; miệng nói năng ngọt xớt, lòng chỉ muốn chiến tranh, lời trơn tru hơn mỡ, mà bén nhọn như gươm!”[189]; “Kẻ đến thăm, miệng nói lời giả dối, nhưng chủ ý thâu tin độc địa, vừa ra khỏi nhà, đã vội rêu rao. Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con!”[190] Còn sách Huấn Ca nhận định: “Có kẻ chỉ là bạn nhất thời, khi con gặp nạn, nó chẳng còn là bạn nữa. Có người bạn lại trở nên thù, tiết lộ chuyện khiến con phải xấu hổ. Có người là bạn khi bình an, lúc con gặp nạn, nó chẳng còn là bạn nữa. Lúc con sa cơ, nó liền chống lại và lánh mặt con luôn”[191]. Nếu gặp phải kẻ “lừa thầy phản bạn, đội trên đạp dưới”, luôn tìm cách loại trừ nhau thì đau biết bao!

Nhưng âu đấy cũng chỉ vì ai cũng quá nghĩ tới mình, tìm kiếm và tranh dành ảnh hưởng, quyền lợi, địa vị, tiếng khen cho cá nhân mình, mà không nghĩ tới đại cuộc của Chúa, của Giáo hội và của các linh hồn. Hãy xem Saolê vì ghen tương tiếng khen của đám phụ nữ mà phải huy động ba quân lùng sục khắp nơi để loại trừ cho được Đavít, không nhớ đến việc Đavít liều mình giết Gôliát cứu dân nước Israel khỏi họa Philitinh thay mình. Chính ĐTC Phanxicô thú nhận: “Đã biết bao nhiêu lần cha thấy các cộng đoàn, các chủng viện, các dòng tu hay giáo phận, nơi đó lời nguyện tắt thông thường nhất là chuyện ngồi lê đôi mách! Thật kinh khủng! Họ “lột da” nhau…. Và đó là thế giới giáo sĩ, thế giới tu trì của chúng ta…. Xin lỗi, nhưng điều đó cũng bình thường thôi: ghen tương, đố kỵ, nói xấu lẫn nhau. Không chỉ nói xấu bề trên, điều này cũ rồi! Nhưng cha nói với các con rằng chuyện này rất hay xảy ra, nó phổ biến lắm! Cha cũng từng bị sa ngã vào chuyện này. Cha đã từng làm thế nhiều lần, rất nhiều lần! Và cha thấy xấu hổ! Cha xấu hổ về điều này! Thật không phải khi làm như vậy là đi ngồi lê đôi mách: ‘Chị đã nghe chưa? Anh đã nghe chưa?’ Một cộng đoàn thế này quả là một địa ngục! Điều này chẳng mang lại lợi ích gì. Và vì thế, mối quan hệ của tình bạn và tình huynh đệ thật quan trọng[192].

Dầu vậy, chúng ta cố gắng hướng nội, nghĩ đến công việc của Chúa và chính Chúa mà sống cao thượng, vượt lên những nỗi đau buồn ấy chứ không để bị chúng đè bẹp và nghiền tán mình, như thánh Phaolô khuyên trong thư Êphêsô: “lấy điều thiện mà chiến thắng điều ác, chứ đừng để bị điều ác đánh bại mình”; hay nghiêm khắc hạch hỏi trong thư 2 Thessalônica: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn! Thế mà chúng tôi nghe nói trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân. Phần anh em, hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí!”[193]; còn trong thư Côlôssê: “hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau[194]; và trong 1 Thessalônica: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy. Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu Chúa chúng ta quang lâm cùng với các thánh của Người[195]. Thánh Phaolô cũng khuyên chúng ta: “Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn[196].

Chúng ta cầu xin Chúa biến đổi chúng ta thành những sứ giả Bình An của Chúa: “Nơi nào có oán ghét hận thù, xin giúp con xây dựng tình thương. Nơi nào có khinh khi nhục mạ, xin giúp con mang lại thứ tha. Nơi nào có mâu thuẫn bất đồng, xin giúp con nên người hoà giải. Nơi nào có giả dối sai lầm, xin giúp con rao truyền chân lý. Nơi nào có hoài nghi ngờ vực, xin giúp con củng cố đức tin. Nơi nào có nản chí sờn lòng, xin giúp con gieo niềm hy vọng. Nơi nào có bóng tối mây mù, xin giúp con khơi nguồn ánh sáng. Nơi nào có u sầu buồn bã, xin giúp con đem lại an vui”[197].

Kinh nghiệm cho biết khi buồn phiền, cô đơn, thất vọng, chán nản đâm liều là lúc dễ bị sa ngã vào tình cảm phái tính nhất, do sự tỏ ra thấu hiểu, dịu dàng, sẵn sàng an ủi nâng đỡ mà chiều hết vì cảm thương của tính cách nữ tính. Vậy chúng ta cần bảo vệ mình và anh em, vì khi anh em linh mục thực sự yêu thương nâng đỡ nhau thì không một thứ tình cảm nào có thể chen vào làm hại mình được. Thấu hiểu điều đó, mỗi người chúng ta cố gắng trở nên bạn thật tốt của nhau, đồng thời quyết tâm phá tan lời kết luận chua chát “người với người là lang sói, nữ tu với nữ tu là lang sói hơn, và linh mục với linh mục là lang sói nhất[198]. Thánh Phêrô khuyên: “Tất cả anh em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn. Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa, nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh em được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc[199].

Khi được hỏi về quan hệ huynh đệ, ĐTC Phanxicô nói “mối quan hệ này có một sức lôi cuốn mạnh mẽ, bao hàm việc chấp nhận những khác biệt và xung khắc. Có những lúc cuộc sống huynh đệ gặp khó khăn, nhưng nếu không có tình huynh đệ thì sẽ không thể sinh hoa trái. Dù thế nào đi nữa, chúng ta không bao giờ được hành động như những nhà quản lý mỗi khi anh em có xung đột, mà cần phải biết làm cho xung đột dịu xuống”[200]. Và trong ngày Đời Sống Thánh Hiến 2/2/2014 trước sự hiện diện của hàng ngàn nam nữ tu sĩ, ngài kêu gọi đừng bao giờ sống khép kín, cứng nhắc, mà nên sống tốt hơn với người trẻ, người già trong cộng đoàn, trong tu viện của mình. Gương thánh Gioan Maria Vianney: tự hạ mình là khiêm nhường, nhưng khi bị hạ nhục mà sẵn lòng đón nhận mới là khiêm nhường đích thực[201]. Xin cho chúng ta biết dùng sự khiêm nhường đích thực để vượt lên khủng hoảng.

Chúng ta có thể áp dụng cho mình lời khuyên của Sắc lệnh Chức vụ và đời sống linh mục là các vị nhiều tuổi hãy đón nhận những vị trẻ tuổi như những người em thực sự và giúp đỡ họ trong những công tác và gánh nặng đầu tiên của sứ vụ, gắng hiểu tâm trạng của họ và theo dõi các dự tính của họ với thiện chí. Còn các vị trẻ tuổi phải biết kính trọng tuổi tác và kinh nghiệm của các vị lớn tuổi, bàn hỏi với các ngài và sẵn lòng cộng tác với các ngài trong việc chăm sóc các linh hồn[202], đặc biệt trong tương quan cha chánh/cha phó[203], cha xứ cũ/cha xứ mới. THĐGMTG 1971 cổ vũ phát triển các hiệp hội linh mục để cung ứng sự trợ giúp huynh đệ cho nhau.

Sắc lệnh Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục số 12 cũng nhắc chúng ta về mối hiệp thông giữa linh mục với Giám Mục[204]. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong dịp Ad limina năm 2002, đã khuyên các GMVN gần gũi hơn với các linh mục, quan tâm đồng hành nâng đỡ đời sống hàng ngày của họ, nhất là khi họ gặp thử thách vì thi hành sứ vụ; cung cấp cho họ một sự đào tạo thiêng liêng thích nghi với những thách đố trong việc truyền giáo mà họ phải đối diện (như trường hợp vì sát cánh bảo vệ đàn chiên mà bị hành hung chẳng hạn). ĐTC Phanxicô cũng nói với các Giám mục Hòa Lan: Với các linh mục là những cộng tác viên trực tiếp của chư huynh, chư huynh hãy gần gũi những người đang đau khổ vì sự trống rỗng tâm linh và đang đi tìm ý nghĩa cho đời họ, dù họ không luôn biết cách phát biểu nó ra. Ta nên đồng hành với họ trong việc tìm kiếm này, lắng nghe họ để chia sẻ với họ niềm hy vọng, niềm vui, khả năng tiến lên phía trước mà chính Chúa Kitô đã ban cho ta?… Quan trọng và thiết yếu xiết bao việc phải gần gũi hàng linh mục của chư huynh, sẵn sàng có mặt đối với mỗi linh mục của chư huynh để hỗ trợ họ và hướng dẫn họ khi họ cần đến! Là những người cha, chư huynh hãy dành thì giờ cần thiết để tiếp đón họ và lắng nghe họ, mỗi lần họ yêu cầu việc này. Và cũng đừng quên đi gặp những người không đến gần chư huynh. Bất hạnh thay, một số những người này thiếu sót trong các dấn thân của họ[205].

Thái độ của chúng ta đối với Giám Mục của mình phải là hợp tác, vâng lời, tình bạn, và nhìn thấy nơi ngài một người cha thực sự và vâng phục ngài với tất cả kính trọng. Sự vâng lời càng đến từ con tim (tâm phục, chứ không phải bởi quyền phục hay lý phục), thì mối tương quan càng trở nên gần gũi và rồi mọi sự đều tốt đẹp, trở nên gương sáng cho mọi người. Trong khi nếu thiếu sự gặp gỡ riêng tư thân tình, thành thật và tín nhiệm, kể cả đụng chạm chất vấn, định bệnh và chữa bệnh ấy thì mọi sự đâu vẫn đấy, chẳng có gì thay đổi, tiến triển. Cuộc gặp gỡ mà lắm khi cần được chủ động về phía linh mục với Giám mục, như ĐTC Phanxicô than phiền: “Thậm chí có những linh mục không chịu nói chi với Giám mục của mình”[206].

Chúng ta hãy nhìn lui để tạ ơn Chúa, nhìn tới để tín thác vào Ngài: Cửa Chúa đóng thì không người nào mở ra được, và cửa Chúa mở thì chẳng ai có thể đóng lại được. Đừng nuối tiếc việc có những người bạn đã đi vào cuộc đời chúng ta: Những người tốt làm cho chúng ta hạnh phúc, những người xấu cho chúng ta kinh nghiệm, những người tồi tệ nhất cho chúng ta những bài học và những người tốt nhất làm cho chúng ta nhớ họ. Đừng than phiền những người bạn làm chúng ta thất vọng, hãy tự trách mình vì đã kỳ vọng quá nhiều ở họ. Đừng khóc quá khứ vì nó đã qua rồi, đừng căng thẳng về tương lai vì nó chưa đến. Hãy sống trong hiện tại, quý trọng ngày hôm nay, hãy cầu nguyện và tri ân Chúa, Ngài sẽ làm cho cuộc đời chúng ta tươi đẹp hơn. Hãy yêu thương những người anh em Chúa đã ban cho chúng ta, vì một ngày kia Ngài sẽ lấy họ lại.

Lạy Chúa, Chúa đã gọi và cho chúng con làm bạn hữu của Chúa. Xin cho chúng con có những người bạn tốt, giúp chúng con trở thành những người bạn thật tốt của nhau và của mọi người. Thánh Phêrô Kim Ngôn dạy: “Vun trồng sự bình an từ gốc rễ là việc của Thiên Chúa, còn nhổ tận gốc sự bình an là việc của kẻ thù. Tình yêu thương huynh đệ nảy sinh từ Thiên Chúa thì sự thù ghét cũng phát xuất từ ma quỷ. Thế nên phải lên án sự hận thù, vì có lời chép: Phàm ai ghét anh em mình là kẻ sát nhân… Ước chi sự bình an sâu xa là mối dây giữ cho tình huynh đệ bền vững và lòng yêu thương nhau là mối dây tốt lành thắt chặt tình huynh đệ ấy[207].

Chớ gì chúng ta có được một tình huynh đệ như tình bạn của Gionathan và Đavít mà chân phước viện phụ Enrêđi đã nhắc đến trong khảo luận về tình bằng hữu hoàn hảo rằng: “Thế mới là tình bằng hữu chân thật, hoàn hảo, vững bền và vĩnh viễn: ghen tương không thể hủy hoại, nghi ngờ không làm suy giảm, tham vọng không hề phá tan. Bị thử thách đến vậy mà vẫn không nao núng, bị xô đẩy đến thế mà vẫn không ngã quỵ, bị nguyền rủa thế nào cũng không lay, bị lăng mạ ra sao cũng không chuyển.[208]

Tình huynh đệ đích thực sẽ là:

·      một sự đoàn kết bên nhau để cùng tiến bước,

·      một cuộc đối thoại thường xuyên trong cuộc sống đa nguyên đa diện,

·      một cuộc gặp gỡ cởi mở hơn cho cuộc hành trình đầy gian khó và nguy hiểm,

một sự có mặt khích lệ hay một nâng đỡ hỗ trợ tinh thần,

·      một lời vui, một tiếng cười thanh thỏa cùng chia sẻ tình thương dâng lên vời vợi,

·      một cái nhìn cảm thông khi vướng trở ngại, hay khi bị thất bại chua cay,

 

·            một “tôi khác” để mỗi người có dịp phản tỉnh nhìn lại bộ mặt của mình, có khi đã hoen ố bụi đời,

·            một bạn đồng hành để con đường thập giá bớt nỗi đơn côi,

·      một Simong vác đỡ hay một Vêrônica lau mặt,

·      một cái gì khỏa lấp chỗ trống vắng tình thương sau tình yêu Thầy Chí Thánh,

·            một hiện diện và hiện thân của Thiên Chúa cao xa vô hình.

ĐTC Phanxicô nói với giới trẻ Paraguay rằng “Tình bạn là một trong những món quà lớn nhất mà một người có thể có được và trao tặng. Đúng vậy. Thật là khó sống nếu không có bạn hữu…. Một trong những bí quyết lớn nhất của Kitô hữu là được làm bạn với Chúa Giêsu. Các bạn hữu chịu đựng nhau, tháp tùng nhau, bảo vệ nhau. Chúa cũng làm như vậy đối với chúng ta. Ngài chịu đựng chúng ta”[209]. Chớ chi mỗi người chúng ta trước hết hãy là người bạn như thế cho nhau và cho kẻ khác. Amen

(Con đường Giêsu mp3)

III. Tìm Chúa Hơn Là Công Việc Của Chúa

1. Sống kinh nghiệm về Chính Chúa

Kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả bắt nguồn sâu xa từ một kinh nghiệm thiêng liêng và thần bí, nó giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa là tuyệt đối và chúng ta có qui chiếu tối hậu nơi Ngài, đến đỗi ngay cả giữa những cơn thử thách lớn lao và trong nỗi ngờ vực sâu xa nhất của đêm tối đức tin, chúng ta cũng cảm nhận được cách chắc chắn rằng THIÊN CHÚA LÀ TẤT CẢ. Xác tín này cổ vũ chúng ta dấn thân sống bền đỗ đời sống và sứ vụ linh mục trong mọi hoàn cảnh cuộc đời. Xác tín Chúa là Tất Cả là một kinh nghiệm đem lại bình an và vui tươi ngày càng lớn lên; là một thứ thần bí kích hoạt làm phát sinh sức mạnh cần thiết để chúng ta sống vui tươi cuộc đời linh mục của mình; là một nguồn lực năng động luôn luôn có mặt với chúng ta.

Kinh nghiệm Chúa là Tất Cả này là một ân ban của Chúa mà chúng ta phải làm tăng trưởng bằng cầu nguyện, chiêm niệm và đời sống nội tâm. Chúng ta chạy đến với kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả này cách tự phát khi gặp khủng hoảng, ngờ vực,… vì đó là một thứ đá tảng không thể chuyển lay trong những thời khắc khó khăn khác nhau của bất trung, chán nản, lầm lạc và cả tội lỗi… Kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả này luôn là một lời mời gọi chúng ta sám hối, trở về với lòng nhiệt thành ban đầu, nếu ngọn lửa của nó không bị dập dắt vì sự chểnh mảng của chúng ta. Trong những cơn khủng hoảng tình cảm hay tính dục, kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả này xuất hiện như sức vượt lên, và trong cô tịch của tâm hồn đổi mới, nó trở thành sự thanh thản sâu xa phát xuất do sự chắc chắn rằng Chúa luôn yêu thương tha thứ cho chúng ta và Ngài yêu thương chúng ta cho đến cùng, bất chấp tất cả yếu đuối và tội lỗi của chúng ta.

Kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả này là hàn thử biểu cho hành trình ơn gọi và sứ vụ của chúng ta. Hành trình này không được đo lường bởi tính hiệu quả và thành công trong các hoạt động tông đồ, cũng không phải bởi sự phát triển hợp lý và hữu hiệu các tài năng riêng của chúng ta. Chính vì thế mà kinh nghiệm Chúa là Tất Cả này soi sáng và kích hoạt bất cứ hoàn cảnh sống nào của chúng ta. Chúng ta có thể khẳng định rằng nó có đủ nước để tưới mát bất cứ sa mạc khô cằn nào của tâm hồn chúng ta. Kinh nghiệm Chúa là Tất Cả này là nguồn đặc sủng và sức năng động tông đồ của chúng ta: Mọi sứ vụ, mọi tận tụy tông đồ, khát vọng hiến mình cho các linh hồn đều được phát sinh và nuôi dưỡng thường xuyên bởi cảm nhận Thiên Chúa là Tất Cả.

Kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả này đi trước mọi sứ vụ gắn liền với nó, vì nó luôn luôn qui chiếu vào chính Thiên Chúa là Đấng nâng đỡ nó. Chính kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả này giải thích thái độ của những người ngày đêm âm thầm phục vụ trong những công việc tay chân tầm thường, khuất ẩn, chẳng ai để ý tới, hoặc thái độ của những người đang dấn thân trong các hoạt động tông đồ đang thành công bất ngờ bị bứng đi, và phải đi tới một nơi như cuộc lưu đày lặng lẽ. Trong số đó có những giáo sư, những nhà nghiên cứu, những nhà lãnh đạo mà hoạt động của họ vốn sáng chói nay bị cấm viết, cấm dạy và bị loại ra, nhưng họ đã bằng an chấp nhận sự thầm lặng mới đó mà không hề chống lại. Tại sao? Vì họ trải nếm được kinh nghiệm nền tảngMột Mình Thiên Chúa là Đủ!

Kinh nghiệm Chúa là Tất Cả này là một ân ban của Chúa, cần phải được các cơ cấu Giáo Hội vun đắp và giúp đỡ. Quả thế, Giáo Hội luôn cung cấp đủ mọi phương thế cần thiết, tự nhiên cũng như siêu nhiên cho con cái mình, để nuôi dưỡng kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả và luôn đặt Chúa lên vị trí hàng đầu:

·      Đức khó nghèo xét như sự lột bỏ và không bám dính bất cứ cái gì để hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa[210];

 

·      Đức vâng lời giúp chúng ta học hỏi ở người đã vượt qua những con đường qui phục Thánh ý Chúa trước mình: Bề Trên là người vừa có kinh nghiệm tìm ý Chúa cho mình, cho những quyết định của mình trên cộng đoàn và mỗi thành viên, vừa dạy chúng ta tìm ý Chúa và cùng chúng ta tìm Ý Chúa[211];

·      Đức khiết tịnh không phải là một khổ chế trấn áp cho bằng là diễn tả một tình yêu trọn vẹn cho Thiên Chúa, không chia sẻ cho ai hay cái gì khác mà thánh Phaolô đã nói về người đàn ông không có vợ và người trinh nữ[212].

Kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả không phải là điểm khởi đầu, mà là điểm phải đến: Chớ gì không có ai hay không có gì làm chúng ta phải giao động hay lo sợ. Mọi sự đều qua đi, nhưng Thiên Chúa không hề thay đổi. Lòng nhẫn nại vượt thắng tất cả. Ai có được Thiên Chúa thì chẳng thiếu gì hết: Một mình Thiên Chúa là đủ.

2. Sống sứ vụ tông đồ: Công Việc Của Chúa

Kiểu sống sứ vụ tông đồ là cái chung nhất của đời tu chúng ta. Đa số ơn gọi chúng ta đều có động lực là sứ vụ tông đồ. Chúng ta đi tu vì muốn phục vụ tha nhân, muốn đi truyền giáo, muốn tận tụy với việc đào tạo, muốn xả thân cho người nghèo. Cái quan trọng nhất chúng ta nhắm đến là phục vụ, tức CÔNG VIỆC CỦA CHÚA. Các cơ cấu Giáo Hội được nhắm tới và được đón nhận như điểm tựa mục vụ giúp chúng ta dấn thân trọn vẹn cho sứ vụ tông đồ. Ngay cả sự nâng đỡ tình cảm của anh chị em cũng có phận vụ tạo nên thế quân bình để công việc phục vụ dưỡng giáo và truyền giáo được hiệu quả lớn nhất.

Các đức tính cần mẫn, quảng đại, sẵn sàng phục vụ… là những giá trị hàng đầu cho sứ vụ tông đồ. Việc hoàn thiện các đức tính nhân bản, thăng tiến các tài năng, đào tạo nghiệp vụ là những yếu tố căn bản cho hiệu năng tốt hơn trong việc tông đồ. Đức khiết tịnh được xét đến trong viễn ảnh phục vụ, vì nó được coi là thích hợp cho sự sẵn sàng khi thuyên chuyển[213].

Người ta đánh giá cao những người có thành tích tông đồ, mà coi thường những người thiếu khả năng đó, khiến một số người bỏ bê đời sống thiêng liêng để mãi mê chạy theo tính hiệu quả của công việc. Điều đó làm phát sinh một vấn đề nội tại: khi một người coi hoạt động tông đồ là nguồn động lực tối hậu của đời sống ơn gọi của mình mà mọi sự được trôi chảy, đáp ứng được các nhu cầu tâm lý, thiêng liêng và nhân bản, thì người đó bước đi trong an bình, vì các hoạt động thỏa mãn được tình cảm, bù trừ cho sự từ bỏ của đời sống độc thân, những thúc đẩy tình cảm tìm được sự thăng hoa lành mạnh và đời sống thừa tác không có gì rắc rối; nhưng các vấn đề sẽ nổi lên khi hoạt động tông đồ mất đi hiệu năng hay không còn mang lại ý nghĩa cho đời sống họ nữa.

Sự chán nản lớn lao của những người quá lý tưởng lúc mới vào tu cũng tác động tới họ và họ cảm thấy không còn động lực để kiên trì, nếu họ vào tu chỉ vì những động lực tông đồ, chứ không phải vì chính Chúa. Đó là lý do tại sao việc rời bỏ đời tu là kết quả đương nhiên của cơn khủng hoảng, vì động lực tông đồ không thể thực hiện được, khiến họ nản lòng và bỏ cuộc. Vì người ta chỉ nghĩ đến VIỆC CỦA CHÚA mà quên đi CHÍNH CHÚA.

Một cuộc sống tu trì mà chỉ chú trọng đến hoạt động tông đồ thôi sẽ gây nhiều khó khăn cho những ai quá bận tâm kiếm tìm hiệu năng của hoạt động. Cơn khủng hoảng gây nên do kiểu sống ấy sẽ đưa đến sự cạn kiệt ơn gọi nhanh chóng như hoàn cảnh thiếu ơn gọi trong các thập niên qua ở Âu Mỹ. Chúng ta cũng phải dự phòng trước tình trạng ấy một ngày kia cũng sẽ tới với Việt Nam chúng ta: ngày nay tại các thành phố lớn không còn ơn gọi nữa, do tình trạng ít con và cuộc sống quá dễ dãi, tự do, quen hưởng thụ, người trẻ sẽ khó chấp nhận và không kham nổi nếp sống kỷ luật và khổ hạnh tu trì.

Sự xung đột cũng nhất thiết xảy ra giữa các cơ cấu tông đồ nặng về truyền thống và lối sống tông đồ sáng tạo của thế hệ mới. Vì thế, chúng ta phải luôn canh tân, điều chỉnh sao cho phù hợp với tâm thức thời đại mà vẫn giữ được cái cốt lõi của sứ vụ. Nếu không, gánh nặng của cơ cấu truyền thống sẽ bị kết thúc bởi những khủng hoảng và những cuộc ra đi. Dĩ nhiên vẫn có những người kiên trì ở lại, ngay cả khi họ không còn có được hoạt động tông đồ hữu hiệu nữa. Nhưng họ kiên trì ở lại bởi nhiều áp lực, vì đối với họ, việc rời bỏ đời tu là một sự sụp đổ hoàn toàn. Trong kiểu sống này, đức khiết tịnh, một khi không còn được nâng đỡ bởi nhiệt huyết tông đồ, phải được duy trì bởi sự khổ hạnh gắn liền với kỷ luật hơn là tình yêu tự nguyện và trọn vẹn cho Thiên Chúa.

Một số người tìm sự hứng thú nơi giải pháp hoàn cảnh là các hoạt động tông đồ mới. Có những người làm việc đào tạo đã bỏ trường học để đi ra giáo xứ, coi đó là hứng thú; rồi khi chán mệt giáo xứ, họ lại ra đi vào đời, và hứng thú lại trở lại. Nhưng khi họ lại chán mệt môi trường xã hội thì họ sẽ đi đâu? Có những người tìm giải pháp theo thời tiêu cực: đã quá muộn để rời bỏ đời tu, phải cố chịu đựng cuộc sống như đã được an bài. Nhưng họ đau khổ vì nỗi xao xuyến về một ơn gọi thật ý nghĩa trong quá khứ mà bây giờ không còn nữa. Những người khác ở lại vì đời tu mang lại cho họ một cuộc sống tiện nghi và trưởng giả, dù rất tầm thường. Họ không còn tin tưởng vào lý do tồn tại của cuộc sống họ đang sống, chấp nhận công việc tông đồ ít ỏi mà họ làm.

Đó là tình trạng và tâm trạng của những người chỉ tìm việc của Chúa mà quên đi chính Chúa. Nếu động lực đời tu là sứ vụ tông đồ mà còn như thế thì huống hồ gì những động lực có tính cách trần thế khác: khi không đạt được những điều tìm kiếm, lại gặp phải những khó khăn thử thách, họ sẽ bỏ cuộc hoặc sẽ sống một cuộc đời tu miễn cưỡng, đã không triển nở hạnh phúc, mà còn sẽ có những tiêu cực nguy hại cho bản thân, cho tha nhân, cho Giáo Hội và sứ mệnh của Giáo Hội, vốn là công trình của Thiên Chúa. Do đó việc đào tạo phải giúp phân định để thanh tẩy và loại bỏ các động lực hay áp lực không thích hợp khi bước vào đời tu. Chúng ta cố gắng phát huy và thăng tiến thế mạnh vừa chiêm niệm vừa hoạt động của mình một cách hài hòa, vừa tìm Chúa trong các công việc của Chúa vừa qui hướng các công việc của Chúa về chính Chúa, nghĩa là ưu tiên tìm Chúa. Chỉ khi biết vượt lên chính mình và những thứ kéo ghì mình xuống để vươn lên với trải nghiệm Chúa là Tất Cả, chúng ta mới có được một đời tu thực sự bình an và hạnh phúc.

3. Điều hợp giữa Chúa và Công Việc Của Chúa

Một giải pháp toàn diện chỉ có được khi có sự hài hòa giữa kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả và sứ vụ tông đồ, tức là Chúa và công việc của Chúa. Quả vậy, khởi đầu chọn vào đời tu là vì lý do tông đồ, nhưng rồi sau đó lại khám phá thấy rằng còn có một lý do sâu xa hơn là sự hiến dâng triệt để cho Thiên Chúa. Như vậy, khởi đi từ một kinh nghiêm tông đồ, chúng ta có thể đi tới kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả. Trong trường hợp này, các hoạt động tông đồ tìm được ý nghĩa đích thực phát xuất từ kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả này.

Vậy đâu là kinh nghiệm đầu tiên dẫn chúng ta đến đời tu: Nếu đó là kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả, thì tính trung thực đời tu được bảo đảm; còn nếu là các hoạt động tông đồ, thì phải xem mình có kiên vững ở đó không. Nếu lý do tông đồ không được tiến hóa hướng về kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả thì chúng ta sẽ đi tới tình huống thực sự nguy hiểm là thiếu động lực đích thực.

Như vậy, kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả hoặc đã có mặt ngay từ đầu, hoặc đã trỗi lên qua dòng đời dâng hiến với việc thực thi các sứ vụ tông đồ, và chúng ta phải nuôi dưỡng, tài bồi vun đắp cho nó. Tất nhiên việc dấn thân trong sứ vụ, sự nhiệt tình tông đồ, lòng tận tụy truyền giáo có thể là những trung gian quí báu để khám phá được kinh nghiệm nền tảng chỉ một mình Chúa là đủ. Nếu chú tâm đặc biệt vào hoạt động mục vụ thì phải hướng các suy tư vào kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả để rút ra được ánh sáng, sức mạnh, và nhiệt tình tông đồ. Đó là một sự trở về nguồn thực sự nơi chính Chúa. Nếu không có sự trở về nguồn này thì mọi kế hoạch canh tân và cập nhật sẽ thiếu nghiêm túc và chiều sâu. Như vậy, có hai cách thức để đạt tới kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả: hoặc ngay từ đầu đã có kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả, hoặc là khởi đi từ trung gian các việc tông đồ mà dần dần tiến lại kinh nghiệm nền tảng này.

Nếu chỉ chú trọng tới hoạt động và hiệu năng công việc và các ơn gọi trỗi dậy từ mối quan tâm tới các hoạt động tông đồ, thì thật là nguy hại nếu chỉ dừng lại đó. Công cuộc được đào tạo và tự đào tạo phải đưa mỗi người đến trung tâm của ơn gọi là chính Chúa. Thật là quan trọng để ý thức rằng kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả này không phải là một bảo đảm luôn luôn sẵn có, mà trước hết phải thử thách và vun đắp, thăng tiến nó. Như bất cứ thực tại nhân loại nào, kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả này cũng trải qua những thử thách cần thiết để được thanh luyện và củng cố bền vững, và chính là nhờ việc tông đồ thanh tẩy nó, đào sâu nó, làm cho nó được vững chắc.

Tóm lại, “Một mình Thiên Chúa đã đủ” là gốc rễ, các cành sẽ lãnh nhận sự sống theo mức độ chúng được nuôi dưỡng bởi nhựa luyện phát sinh từ gốc rễ. Rễ mà không mọc ra và phân nhánh để thu hút dưỡng chất từ mẹ đất thì cành phải chết: Ham việc của Chúa mà không ở với Chúa cũng giống như thế. Do đó, ta phải luôn tìm Chúa trong mọi công việc tông đồ và qui hướng mọi việc tông đồ về chính Chúa: “Xin đừng làm rạng rỡ chúng con, vâng lạy Chúa, xin đừng, nhưng xin cho Danh Ngài rạng rỡ, bởi vì Ngài thành tín yêu thương.[214]

4. Quy chiếu về Chúa Giêsu

Việc đạt tới nhận thức rằng một mình Thiên Chúa là đủ phải vừa là điểm xuất phát vừa là đích tới. Chúng ta thường không đạt được kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả ngay từ bước đầu tiên của ơn gọi, nhưng trong suốt hành trình được đào tạo và tự đào tạo, cũng như trong cuộc sống và sứ vụ tông đồ, nó phải được tôi luyện, mà rõ nét nhất là từ các khủng hoảng hay những thách đố lớn. Đúng vậy, phải nhìn nhận rằng các khủng hoảng cũng là một dữ kiện sinh tồn, vì có khủng hoảng tất nhiên đòi hỏi phải có những tiêu chuẩn giải quyết: chúng ta phải mở ra với thế giới đang đổi thay, nhưng phải tránh cơn cám dỗ khuôn đúc theo thế giới này, đồng thời phải chuyển tải cái nhân Phúc Âm đến cho một thế giới đang thực sự cần nó, để nó biến đổi thế giới. Cái nhân Phúc Âm này không phải là một giáo thuyết mà là một con người: Đức Giêsu Kitô.

Ở bình diện cộng đoàn lẫn ở bình diện cá nhân, chúng ta phải đi gấp tới việc thanh tẩy các động lực của mình. Trước Công đồng Vaticanô II, người ta đã nhấn mạnh các viễn ảnh đạo đức và luân lý: bó buộc tìm kiếm sự hoàn thiện, lòng quảng đại tông đồ, yêu sách đời sống cộng đoàn. Tâm thức đó được chuyển tải trong các sách tu đức, những khảo luận về lòng đạo đức và các thủ bản tĩnh tâm. Ý niệm đó phải bị vượt quá bởi một ý niệm khác có tính chất Kinh Thánh hơn và đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu, “Đấng vẫn là một hôm qua, hôm nay và mãi mãi”[215], đó là cốt lõi. Đặt trọng tâm nơi Thầy Chí Thánh là cách thế duy nhất để trở nên người môn đệ nhiệt thành dưỡng giáo và truyền giáo hầu muôn dân có sự sống trong Ngài.

Sự qui chiếu về Chúa Giêsu phải là tuyệt đối. Dostoievski xác tín: “Đôi lúc Chúa gửi đến cho tôi những khoảnh khắc bình an, trong những khoảnh khắc ấy, tôi yêu và cảm nhận tôi được yêu. Chính trong những khoảnh khắc ấy, tôi đã sáng tác một bản tuyên xưng đức tin, trong đó mọi sự thật rõ ràng và thánh thiêng. Bản tuyên xưng này rất giản dị như thế này: Tôi tin rằng không có gì đẹp hơn, không có gì sâu xa hơn, không có gì thiện cảm hơn, không có gì hữu lý hơn, không có gì mạnh mẽ hơn, và không có gì hoàn hảo hơn Chúa Kitô. Và tôi tự nhủ với một tình yêu ganh tỵ rằng chẳng có gì hiện hữu và chẳng có gì có thể tồn tại, ngay cả khi một ai đó chứng minh cho tôi rằng Chúa Kitô ở ngoài chân lý và chân lý không ở trong Ngài thì tôi cũng sẽ chọn ở lại với Chúa Kitô thay vì ở lại với cái chân lý được giả thiết đó”.

Trong cùng ý hướng ấy, thánh Patrice viết: “Chúa Kitô ở với tôi, Chúa Kitô ở trong tôi, Chúa Kitô ở đàng sau lưng tôi, Chúa Kitô ở đàng trước mặt tôi, Chúa Kitô ở bên cạnh tôi, Chúa Kitô đến nắm lấy tôi, Chúa Kitô đến an ủi tôi, Chúa Kitô đến bổ sức cho tôi, Chúa Kitô ở bên dưới chân tôi, Chúa Kitô ở bên trên đầu tôi, Chúa Kitô ở trong sự bình tâm, Chúa Kitô ở trong hiểm nguy, Chúa Kitô ở trong trái tim của những người yêu mến tôi. Chúa Kitô ở nơi môi miệng của bạn hữu cũng như của người xa lạ.”

Và thánh Vinh sơn đệ Phaolô viết: “Bạn hãy nhớ rằng chúng ta sống trong Chúa Kitô nhờ cái chết của Chúa Kitô, và chúng ta phải chết trong Chúa Kitô để được sự sống của Chúa Kitô, đời sống chúng ta phải được giấu ẩn trong Chúa Kitô và tràn đầy Chúa Kitô, và để chết như Chúa Kitô thì phải sống như Chúa Kitô.” Trong khi thánh Gioan Tiền Hô ước muốn “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải bé đi” (Ga 3,30) thì thánh Phaolô xác tín: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi thì nay vì Đức Kitô tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi” (Pl 3,7-8a) vì từ nay “Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống nữa, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).


 

KẾT LUẬN CHUNG

 

Kính thưa Đức Cha và Quý Cha,

Con xin được kết thúc với bài MỘT LINH MỤC ĐÍCH THỰC của bà Madeleine Delbrêl (1904-1964)[216]:

Trong cuộc sống, sự vắng bóng của một linh mục đích thực là một nguy khốn không tên. Món quà lớn nhất linh mục có thể làm, đức ái lớn nhất linh mục có thể mang lại, là trở nên một linh mục đúng là một linh mục đích thực.

Trong Đức Kitô có sự sống nhân loại và sự sống thiêng liêng. Nơi linh mục, giáo dân cũng muốn tìm thấy một sự sống thực sự của con người và một sự sống đích thực của Thiên Chúa. Khổ thay nơi nhiều linh mục lại thiếu cái này hoặc cái kia.

Có những linh mục dường như chưa bao giờ có cuộc sống của một con người. Họ không thấu cảm được những khó khăn của giáo dân, của một người cha hay của một người mẹ gia đình, với đúng gánh nặng của con người. Một cách đau đớn, họ không thật sự nhận ra thế nào là đời sống của một người đàn ông/một người đàn bà.

Khi tín hữu gặp được một linh mục hiểu họ, cảm thông đời sống của họ, các khó khăn của họ, thì họ sẽ không bao giờ đánh mất kỷ niệm này. Với điều kiện linh mục hòa đời sống họ vào đời sống giáo dân, dù họ không hoàn toàn sống như giáo dân. Từ lâu, các linh mục đã đối xử với giáo dân như các trẻ vị thành niên; nhưng ngày hôm nay, tình trạng này lại ở một thái cực khác, linh mục đồng hóa với giáo dân. Giáo dân muốn linh mục vẫn là người cha. Khi người cha trong gia đình thấy con mình lớn lên, từ đó, ông đối xử với con mình như người lớn, chứ không như đứa trẻ con, nhưng ông luôn xem nó là con mình: một đứa con trưởng thành.

Giáo dân cũng cần linh mục sống một cuộc sống thiêng liêng. Linh mục vừa sống giữa giáo dân, nhưng vừa phải sống với Chúa. Các dấu hiệu nào giáo dân mong chờ ở sự hiện diện thiêng liêng này?

·      Cầu nguyện: có những linh mục giáo dân không bao giờ thấy họ thực sự cầu nguyện;

·            Niềm vui: biết bao linh mục luôn bị bận rộn, lo lắng!

·      Sức mạnh: linh mục phải là người đứng trụ; nhạy cảm, rung động, nhưng không bao giờ được sụp đổ;

·      Tự do: giáo dân muốn linh mục tự do khỏi mọi hình thức, thoát khỏi thành kiến;

·      Bất vụ lợi: đôi khi giáo dân cảm thấy mình bị linh mục lợi dụng, thay vì giúp đỡ giáo dân hoàn thành sứ vụ;

·      Kín đáo: linh mục phải kín miệng, kẻo giáo dân thất vọng vì đã quá thổ lộ;

·      Sự thật: linh mục phải luôn là người nói sự thật;

·      Khó nghèo: Một người thanh thoát tiền bạc luôn hướng về phía người thấp bé và nghèo khổ. Đó là điều thiết yếu như luật “trọng lực”;

 

 

·            Khái niệm đúng về Giáo hội: linh mục không bao giờ nói về Giáo hội một cách khinh suất như người ở ngoài Giáo hội! Một người con xét đoán mẹ mình thì ngay lập tức nó sẽ bị xét đoán.

Nhưng thường có một cuộc sống thứ ba xâm nhập và nổi trội lên giữa hai cuộc sống trên: linh mục là người của đời sống Giáo Hội, của “môi trường giáo sĩ”: ngôn từ, cách sống, cách gọi các sự việc, sở thích về những lợi ích nho nhỏ và những tranh cãi nhằm gây ảnh hưởng,… tất cả những điều này làm cho họ có một mặt nạ, đau đớn thay nó che giấu gương mặt của một linh mục đích thực ở đàng sau mặt nạ này… Quả thật, trong cuộc sống, sự vắng bóng của một linh mục đích thực là một nguy khốn không tên.

Con xin hết lòng cám ơn Đức Cha và Quý Cha. Nguyện xin Chúa Thánh Thần tác động và biến đổi chúng ta nên những linh mục đích thực của Chúa cho đoàn chiên. Amen

 

Phần chú thích 

 

[1] HĐGMVN, Những nguyên tắc liên quan đến tội phạm lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên nơi những nhân sự thuộc quyền Giáo Hội Công Giáo Việt Nam số 7 và số 19.

[3] Gc 5, 19-20.

[4] The Guardian ngày 5/9/2015 đưa tin có cả ngàn vụ lạm dụng tình dục trong học đường nước Anh, mà ít nhất 20% số vụ được thực hiện bởi những bạn học cùng lứa.

[5] Con số thống kê cuối năm 2013 mới được công bố ngày 18/10/2015 là 415.348 linh mục trên toàn thế giới, gồm 280.532 triều và 134.816 Dòng.

[6] Theo thông báo ngày 04/01/2012 của Bản Quyền TGP.

[9] Ep 2, 3-5.

[10] Trong bài giảng lễ ngày 13/4/2013.

[11] x. Rm 13,11-14.

[12] Câu chuyện một cha đứng tuổi và một bà sơ trẻ di tản năm 1975.

[13] Xem St 3, 1-24.

[14] Lc 4,13.

[15] Gc 4, 7-8.10.

[16] Một linh mục Saigon cho hay Công An đe sẽ bạch hóa 60 trường hợp linh mục bê bối nếu linh mục cán bộ của họ bị thi hành Giáo Luật.

[17] X. Ga 8, 10-11.

[18] x. câu chuyện xảy ra tại Ba Lan cho một linh mục lầm lỡ.

[19] ĐTC Phanxicô phát biểu hôm 5/4/2013, theo CNA/EWTN News.

[20]* Kim Chỉ Nam 2013, số 82, 7-8. Các linh mục Dòng có lợi điểm đời sống cộng đoàn, nhưng những ai bỏ lợi điểm này thì tỉ lệ vấp ngã sẽ cao hơn.

[21] GL 1043.

[22] Câu chuyện xảy ra với một chủng sinh năm cuối và một em Nhà Tập.

[23] Ra ngày 3/5/2011 và công bố hôm 16/5/2011.

[24] ĐTC Phanxicô phát biểu hôm 5/4/2013, theo CNA/EWTN News.

[25] WASHINGTON DC, 08 Tháng 12 (CNA / EWTN Tin tức).

[29] Huấn thị Những chỉ dẫn về việc huấn luyện trong các Dòng, 2/2/1990 số 88-89.

[30] HĐGMVN, Những nguyên tắc… số 5.

[31] Ibid, số 5.

[32] CNS 3-1-2014.

[33] Đó là lập trường được các đại biểu của 10 Đại chủng viện Việt Nam họp tại Đàlạt Hè 2015 nhất trí. Đức Cha nhà và TGM F.X. cũng có lập trường như thế.

[34] ĐTC Phanxicô phát biểu hôm 5/4/2013, theo CNA/EWTN News.

[35] Trích từ cuộc phỏng vấn ngày 5/3/2014 ĐTC Phanxicô của nhật báo Ý Corriere della SeraCNA/EWTN News.

[39] Theo Giáo sư Dan B. Allender và cũng là nhà trị liệu tâm lý Kitô giáo, là chuyên gia về việc lạm dụng tình dục.

[40] Xem nỗi đau tức tưởi của một người bị bó buộc để tiếp tục bị lạm dụng.

[41] Những Nguyên Tắc…, số 12.

[42] Ibid, số 17.

[43] ĐTC Phanxicô phát biểu hôm 5/4/2013, theo CNA/EWTN News.

[44] ĐTC Phanxicô phát biểu hôm 5/4/2013, theo CNA/EWTN News.

[46] Ibid.

[47] Nổi bật nhất là trường hợp của ĐHY Bernard Law Giáo phận Boston, từ chức vào tháng 12/2002 ở tuổi 71.

[50] TTXVN/VIETNAM+ lấy nguồn từ independent.co.uk/news.

[51]* Theo luật pháp Việt Nam, hành vi dâm ô với trẻ em phải được xử lý bằng pháp luật hình sự (chính quyền không được phép tổ chức hòa giải). Nếu bị kết án, người có hành vi phạm tội có thể phải chịu hình phạt tối đa lên đến mười hai (12) năm tù giam (Điều 116 Bộ luật Hình sự).

[52]http://www.telegraph.co.uk/news/worldnews/europe/vaticancityandholysee/11830012/Ex-archbishop-Jozef-Wesolowski-dies-ahead-of-Vatican-paedophilia-trial.html

[55] HĐGMVN, Những Nguyên Tắc…, số 17.

[58] Kim Chỉ Nam 2013, số 82,6.

[59] Được đăng lại ở Vatican Radio Eng. 13/3/15, J.B. Thái Hòa chuyển dịch.

[60] HĐGMVN, Những Nguyên Tắc… số 8.

[62] ĐTC Phanxicô tiếp kiến 17 Giám mục Dominica ngày 28/5/2015 – http://vietcatholic.org/News/Html/137747.htm

[64] Theo Radio Vatican – http://hdgmvietnam.org/vatican-hop-hoi-dong-hong-y-tu-van-ve-viec-phan-quyen-va-thanh-lap-cac-co-quan-moi-trong-giao-trieu/7678.57.7.aspx

[68] HĐGMVN, Những Nguyên Tắc…, số 1.

[69] ĐTC Phanxicô nói ngày 15/8/2016: “những phụ nữ bị buôc phải tuần phục cả tinh thần lẫn thể xác cho sự ham muốn của đàn ông”.

[70] ĐTC Phanxicô phát biểu hôm 5/4/2013, theo CNA/EWTN News. *Câu chuyện “Nhìn thấy linh mục đó, con ghét quá!”

[71] Mc 9, 42: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn”.

[75] Trích Thư Năm Linh Mục của ĐHY Cláudio Hummes Zenit.org ngày 27/5/2009.

[78] Trích sách Tự Thuật của thánh Augustino, Giám mục – Bài đọc 2 Kinh Sách lễ thánh Augustino 28/8.

[80] Gl 3,3.

[81] 1 Th 4, 6-7.

[82] Thánh Thi Kinh Sáng thứ Ba tuần IV.

[83] Thánh thi kinh Sáng Thứ Nam tuần IV.

[84] Như ở các quán massage tình dục.

[85]* Linh mục Krzysztof Charamsa, người Ba Lan, 43 tuổi, làm việc tại Bộ Giáo lý Đức tin, đã thú nhận sống đồng tính, gây cơn bão truyền thông ngay hôm trước ngày khai mạc THĐ về Gia đình 4/10/2015 và Vatican ngưng chức ông – http://phanxico.vn/2015/10/05/su-sa-nga-cua-mot-linh-muc/

[86] Courage, một tổ chức tông đồ chuyên lo hỗ trợ mục vụ cho các người đồng tính nam nữ thế giới – http://www.vietcatholic.org/News/Html/144607.htm

[87] X. câu chuyện chia sẻ của một linh mục trẻ với một phụ nữ thiện nguyện có gia đình.

[88] Cha Felix M. Padimatham chỉ ra nhiều mẫu gương các Thánh và Chân Phước đã có loại tình bạn này trong cuộc đời các ngài, như thánh Hiêrônimô và bà quả phụ Paula, thánh Gioan Kim Khẩu và nữ trợ tế Olympias, thánh Phanxicô Assisi và thánh nữ Clara, thánh nữ Catarina Siena và Chân Phước Raymon Capua, thánh nữ Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá, v.v…

[89] x. Câu chuyện ‘một nơi kín đáo không ai nhìn thấy’ của thầy Dòng nọ.

[90] 2 Cr 4,7.

[91] CNS 25.11.2010 ghi lại bài giáo lý của ĐTC Biển Đức trong buổi triều yết chung ngày 24/11/2010.

[92] x. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, Đào tạo và tự đào tạo thiêng liêng của linh mục tương lai trong bối cảnh Việt Nam ngày nay, tr.283-291.

[93] St 2, 18-24.

[94] 1 Cr 7, 27-28.

[95] Mc 12,17.

[96] Xem phần nói về các loại thân mật của linh mục.

[97] x. Mt 26,41; Mc 14,38.

[98] 2 Cr 11, 29.

[99] Chúa đã gọi cha, Chúa đã gọi con. Chúa đã gọi, sao còn một tiếng gọi? Lòng nhủ lòng can đảm dẹp mến thương, Vâng tiếng Chúa, quyết giúp nhau sống cho tròn sứ mệnh.

[100] Gl 5,17.24-25.

[101] Ga 17,11.15-19.

[102] Nhớ bài “Lý Con Quạ” Nam Bộ: “Quạ kêu, cái mạ quạ kêu, nam đáo bất đáo nữ phong, người dưng khác họ, chẳng nọ thời kia, ban ngày mắc cỡ, tối ở quên về, chừng ra í a ra về, tình tình mà nhớ thương, chừng ra í a ra về, tình tình mà nhớ thương.”

[103] 1 Tm 5,2.

[104] x. Bài thuyết trình “Giáo Hội cảm phục và biết ơn những người nữ sống đời thánh hiến” của lm. Micae-Phalô Trần Minh Huy pss tại Đại Hội Tu sĩ tòan quốc lần thứ IV ngày 8-10/3/2010 tại Bùi Chu..

[105] Trích bài phát biểu trong buổi tiếp kiến sáng thứ bẩy 25/1/2014, dành cho 300 tham dự viên hội nghị toàn quốc do Trung Tâm Phụ Nữ Italia tổ chức.

[106] ĐTC nói trong ngày đời sống thánh hiến 2/2/2014.

[107] x. 2 Cr 12,7-10.

[108] Tl 16,4-6.16-21.

[109] Tl 16, 22-31.

[110] 1 Ga 2, 15-17.

[111] HĐGMVN, Những nguyên tắc liên quan đến tội phạm lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên nơi những nhân sự thuộc quyền Giáo Hội Công Giáo Việt Nam số 7 và số 19.

[112] Được tổ chức năm 2007 tại Đồng Nai – Trích Tin Việt Nam ngày 7/8/2008.

[113] * Chúng ta biết việc quan hệ tình dục trước khi kết hôn là hành vi xúc phạm tới giới răn thứ sáu, là tội gian dâm. Tội này trái nghịch cách nghiêm trọng với nhân phẩm và tính dục của con người. Ngoài ra, nó còn liên quan tới một người khác nữa và cũng có thể là một gương xấu công khai nghiêm trọng khi làm băng hoại giới trẻ (xem GLCG 2353).

[114] Bộ Tu Sĩ, Huấn thị Những chỉ dẫn về việc huấn luyện trong các Dòng, 2/2/1990 số 88-89.

[115]

 

 

 

HĐGMVN, Những nguyên tắc… số 5.

[116] Xem bài Tự Do Tự Nguyện Sống Luật Độc Thân Thánh Hiến.

[117] GL 1024-1052.

[118] Xin xem Ephesô 2,1-10.

[119] Theo CWNews 26.03.2010, ĐGH Biển-Đức XVI đã rất kiên quyết và dứt khoát trong việc xử lý những trường hợp lạm dụng tính dục.

[120] HĐGMVN, Những nguyên tắc… số 5.

[121] Ibid, số 5.

[122] CNS 3-1-2014.

[123] Chúng ta cũng có thể đọc thấy trường hợp của Eugenio Pacelli (ĐGH Pio XII) bị Lucia từ chối, diễn viên điển trai đầy hấp dẫn Karol Wojtyla (thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II) không đáp trả tình cảm của một nữ đồng diễn viên, hay Joseph Ratzinger (ĐGH Biển Đức XVI) đã có quyết định không dễ dàng đối với đời sống độc thân – http://phanxico.vn/2016/09/11/tinh-yeu-tuoi-tre-cua-duc-ratzinger-va-cac-duc-giao-hoang-khac/

[124] Đó là lập trường nhất trí của Hội nghị các đại chủng viện Việt Nam họp tại Đàlạt Hè 2015.

[126] Một chủng sinh năm cuối có quan hệ như thế với một em Nhà Tập và cấm không được nói ra để anh làm linh mục với bất cứ giá nào. Em Tập Sinh khuyên thế nào cũng không được, đành phải trình bày với Bề trên và xin về. Bề trên trình với Chủng viện. Chủng viện loại anh về, và liền đó 4,5 chủng sinh khác giật mình xin về, khiến mọi người bất ngờ, ngay cả các vị linh hướng của họ.

[127] Ngay trong tai họa lạm dụng tình dục trẻ em khiến lập trường Giáo hội trở nên cứng rắn hơn và yêu cầu tích cực hợp tác với thẩm quyền dân sự thì ấn tòa giải tội vẫn phải được tuyệt đối tuân giữ, cha giải tội không được tố cáo người đến xưng thú phạm tội ấu dâm. Xem CWNews 18.03.2010: Một giới chức Vatican nhắc nhở trong tờ Osservatore Romano: Nếu một linh mục thú nhận lạm dụng các trẻ em trong một lần đến bí tích thống hối, thì cha giải tội không được tố cáo vụ lạm dụng ấy cho các thẩm quyền hợp pháp. ĐGM Gianfranco Girotti, một giới chức của Toà Ân Giải, nhấn mạnh rằng ấn toà trong là tuyệt đối. Cha giải tội không được làm bất cứ điều gì dựa trên những lời thú tội của hối nhân hoặc tiết lộ những tội đã được xưng ra cho bất kỳ người nào. Ngài nói: “Việc duy nhất toà giải tội có thể làm là xá tội”. Lời chỉ trích các giám mục Công giáo về việc xử lý và giải quyết các linh mục lạm dụng tập trung vào những trường hợp trong đó những phát hiện lạm dụng là ở ngoài toà giải tội – hoặc qua những khiếu nại từ các nạn nhân hoặc qua những lời thú nhận do các linh mục trong những phỏng vấn hành chính.

 

 

[128] ĐTC Phanxicô phát biểu hôm 5/4/2013, theo CNA/EWTN News. *Câu chuyện “Nhìn thấy linh mục đó, con ghét quá!”

[129] ĐTC Phanxicô phát biểu hôm 5/4/2013, theo CNA/EWTN News.

[130] 2 Cr 11, 29.

[131] 2 Cr 11,29; 1 Cr 10,12.

[132] Tl 16,4-6.16-21.

[133] Hc 47,13-20.

[134] ĐHY Carlo Maria Martini, trích trong Alleluiah số 109.

[135] Xem Câu chuyện người em gái nuôi từ chối lời cầu hôn của ông anh chủng sinh.

[136] Tôi nhớ trường hợp đá trái ban cho Đức Cha.

[137] Xin xem các biện pháp đối với tệ nạn lạm dụng tình dục.

[138] Cóc đẻ trứng dưới nước, nở ra nòng nọc. Khi nòng nọc biến thái, đứt đuôi thành cóc thì lên sống trên khô. Cóc không xuống sống dưới nước, nếu lỡ bị rơi hay bị ném xuống nước, cóc sẽ vội vã tìm cách lên khô. Sự dứt khoát đoạn tuyệt với các tình huống tình cũ cũng phải như thế.

[139] Nửa Chừng Xuân.

[140] “Ông cha nọ làm cho hai nữ tu nhà con mang thai mà cứ nhơn nhơn dâng lễ, con trông thấy ghét quá”.

[141] GL 1043.

[142] xin đọc cuốn sách “Tình bạn như nhiệm tích”.

[143] Vaticanô II, Vui Mừng và Hy Vọng, 7/12/1965, số 1.

[144] 1 Cor 7,32.

[145] 1 Ga 3, 17.

[146] 1Ga 4, 12. 20.

[147] x. Cuộc hội thảo Thần học về thân xác tại Philadelphia ngày 30/7/2010 tại trang điện tử http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20100803/6101

[149] Rôma ngày 13/10/2010, http://www.zenit.org/article-25701?l=french.

[150] Đức ông Rossetti là một nhà tâm lý học chuyên sâu, tác giả cuốn “Tại sao các linh mục hạnh phúc”, là Chủ tịch và Giám đốc điều hành trung tâm điều trị và giáo dục dành cho hàng giáo sĩ và tu sĩ.

[151] Bà Nicole Jeammet, chuyên gia về tâm bệnh học, trao đổi với Zenit tại Rôma ngày 23/01/2011 (

 

 

 

 

ZENIT.org

 

 

 

)- http://www.zenit.org/article-26731?l=french

[152] Các nước Á châu, và ngay cả tại Việt Nam, không phải là không có đâu, nhưng không bị bạch hóa ồn ào vì tâm thức dè dặt kín đáo và tế nhị của người mình thôi.

[153] Presbyterorum Ordinis, số 16.

[154] Sacerdotalis Coelibatus số 12.

[155] Pastores Dabo Vobis số 29.

[156] x. GL 277,1.

[157] PDV. 29; PO. 16; Sacerdotalis Coelibatus 14; GL 277,1.

[158] Chỉ Nam 1994 số 57.

[159] x. 2 Th 2,15; 1 Cor 7,5; Tt 1,6-8; Chỉ nam 1994 số 59.

[160] Bộ GDCG, Đường hướng giáo dục trong việc huấn luyện độc thân linh mục số 16.

[162] 1 Tm 6,11.

[163] x. Những khái niệm về việc đào tạo bậc độc thân linh mục số 27 của Hội Xuân Bích.

[164] x. Bộ Giáo dục Công giáo, Huấn luyện thiêng liêng trong các chủng viện II,3 “những khổ chế thiêng liêng”; Jean-Jacques OLIER, “Con đường nên thánh là con đường thập giá.”

[165] x. 1 Co 4, 14-15 về tình phụ tử của thánh Phaolô đối với các tín hữu.

[166] GL 1026.

[167] Chỉ Nam 1994 số 58.

[168] x. 1 Cr 7, 32.34.

[169] x. Os 2,22.

[170] X. 2 Cr 11, 29; 1 Cr 10,12.

[171] Vat. II, Presbyterorum Ordinis, số 14.

[172] Eph 5,25-27.

[173] Ibidem.

[174] Lumen Gentium số 28.

[175] Chỉ Nam Linh Mục 1994 số 13.

[176] Ibidem.

[177] x.1 Cr 7,3-4.

[178] JP II, Pastores Dabo Vobis, số 29.

[179] x. 2 Cr 11,2.

[180] x. Gal 4,19; Pastores Dabo Vobis, số 29.

[181] JP II, Pastores Dabo Vobis, số 23.

[182] x. Ga 21,15-17.

[183] Vat. II, Presbyterorum Ordinis, số 14.

[184] ĐTC Phanxicô nói khi gặp các tu sĩ trong cuộc thăm viếng mục vụ Hàn Quốc.

[185] Trích chia sẻ của ĐTC Phanxicô với giới trẻ Sardinia trong chuyến Viếng Thăm Mục Vụ Cagliari Chủ Nhật 22 /9/2013.

[187] ĐHY Cláudio Hummes, Thư nhân Năm Linh Mục Zenit.org ngày 27/5/2009.

[188] Tv 55,13-15.

[189] Tv 55,21-22.

[190] Tv 41,7,10.

[191] Hc 6, 5-17.

[192] ĐTC Phanxicô phát biểu với các chủng sinh và tập sinh tham dự Đại Hội Đời Sống Thánh Hiến tại Rôma ngày 6/7/2013.

[193] 2 Tx 3,10b-13.

[194] Cl 3, 12-13.

[195] 1 Tx 3, 12-13.

[196] Rm 12,14-16a.

[197] Lời cầu kinh Sáng thứ bảy tuần XIV TN.

[198] Dụ ngôn hai con chó sói: Một cụ già rất minh triết dạy cho cháu mình bài học quan trọng của đời sống: Trong mỗi người chúng ta có một trận chiến giống như trận chiến giữa hai con chó sói. Một con đại diện cho sự dữ, tâm hồn nó nuôi hận thù, ham muốn, ích kỷ, tham vọng, nói dối… Con kia đại diện cho sự thiện, nó bảo vệ cho hòa bình, tình yêu, hy vọng, sự thiện, lòng tốt, lòng trung tín. Đứa bé suy nghĩ một lúc rồi hỏi: “Hai con chó sói đánh nhau đó, con nào sẽ thắng?” Ông già mỉm cười trả lời: “Thì con nào mà cháu nuôi cho nó khỏe hơn đó! Nếu cháu để lòng hận thù, ghen ghét chế ngự thì con sói ác thắng, còn nếu cháu để lòng yêu thương, hòa thuận chế ngự thì con sói thiện sẽ thắng. Con sói nào sẽ thắng là tùy thái độ sống của cháu đó!”

[199] 1 Pr 3, 8-9.

[200] ĐTC Phanxicô nói với Đại Hội lần 82 của Liên Hiệp Bề trên Tổng quyền tại Rơma ngày 27-29/11/2013 http://www.hdgmvietnam.org/tiep-cac-be-tren-tong-quyen-duc-thanh-cha-thong-bao-nam-2015-la-%E2%80%9Cnam-doi-song-thanh-hien%E2%80%9D/5605.57.7.aspx

[201] Xem câu chuyện ký đơn xin bản Quyền đổi Vianney khỏi xứ Ars: “Anh em không biết hết các điểm yếu của con”.

[202] PO, số 8.

[203] Ở một địa phận kia, không biết tương quan cha sở/cha phó cay đắng đến thế nào mà cha phó phải treo cổ tự tử. Hãy cầu nguyện cho các ngài và cảnh giác cho chúng ta.

[204] Sắc lệnh Chức vụ và đời sống linh mục, số 12.

[205] Trích Diễn văn của ĐTC Phanxicô với các Giám Mục Hòa Lan, ngày 3/12/2013 – http://www.vietcatholic.net/News/Html/119481.htm

[206] ĐTC Phanxicô phát biểu hôm 5/4/2013, theo CNA/EWTN News.

[207] Trích bài giảng được coi là của thánh Phê-rô Kim Ngôn, giám mục – Bài đọc 2 Kinh Sách lễ Thánh nữ Ê-li-sa-bét Bồ-đào-nha.

[208] x. 1 Sm 19,8-10; 20,1-17; bài đọc Kinh sách tập 3, tr.341-342.

[209] Đức Thánh Cha gặp gỡ hơn 200 ngàn bạn trẻ Paraguay ngày 12/7/2015 http://www.vietcatholic.net/News/Html/140401.htm

[210] X. G 1,21; 2,10b.

[211] x. Huấn thị Phục vụ Quyền Bính và Vâng Lời năm 2008 của Bộ Tu Sĩ.

[212] 1 Cr 7, 32-35.

[213] Linh mục Giáo hội Đông phương có vợ con nên rất khó thuyên chuyển; các linh mục và nữ tu nào bị dính bén tình cảm cũng gây nên nhiều khó khăn cho Nhà Dòng khi cần thuyên chuyển!

[214] Tv 113B,1.

[215] Dt 13,8.

[216] “Tăng trưởng hay suy giảm của hàng giáo sĩ Pháp”- Anrê Trần Lam Hồng chuyển dịch – http://phanxico.vn/2016/06/29/mot-linh-muc-dich-thuc-theo-ba-madeleine-delbrel/