Bài 10 – Lớp Hội nhập Văn hoá: Có nên quan tâm đến yếu tố tôn giáo trong hoạt động doanh nghiệp ở Việt Nam không?
Nếu chúng ta nhìn hoạt động kinh doanh là một phần hoạt động của con người toàn diện và chính con người này quyết định buôn bán hàng thật hay hàng giả, … thì chúng ta không thể không chú ý tới yếu tố tôn giáo trong hoạt động doanh nghiệp.
Có nên quan tâm đến yếu tố tôn giáo trong hoạt động doanh nghiệp ở Việt Nam không?
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Lời mở
Trong Hội thảo Quốc tế với chủ đề: “Thực trạng việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam” do Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp với cơ quan Misereor (Cộng hoà Liên bang Đức) tổ chức tại Đồ Sơn, TP.Hải Phòng, từ ngày 11-12/11/2013, chúng tôi được đề nghị trình bày đề tài “Có nên quan tâm đến yếu tố tôn giáo trong hoạt động doanh nghiệp ở Việt Nam không?”. Bài 10 của Lớp Hội nhập Văn hoá này là phần trích của bài trình bày trong Hội thảo trên.
Bàn về tôn giáo trong hoạt động kinh doanh có vẻ như hơi lạc điệu và ngược đời! Lạc điệu, vì đây là hội thảo khoa học trong khi tôn giáo lại là một thực thể có những yếu tố vượt ra ngoài khoa học. Ngược đời, vì hoạt động doanh nghiệp là hoạt động bị chi phối bởi yếu tố khách quan của con người nơi trần thế với tiền bạc, tài sản, công nghệ, kỹ thuật, thị trường.. trong khi tôn giáo lại liên quan đến những yếu tố siêu việt, đến lương tâm con người, đến thần thánh và thế giới vô hình là những thứ không thể kiểm nghiệm và kiểm chứng!
Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn hoạt động kinh doanh là một phần hoạt động của con người toàn diện và chính con người này quyết định buôn bán hàng thật hay hàng giả, làm tốt hay làm dối những dịch vụ cho khách hàng, đối xử tốt hay xấu với những công nhân, nhân viên làm cho mình, đóng góp cho xã hội hay chỉ hưởng thụ cho cá nhân mình, bảo vệ hay tàn phá môi trường sống…, thì chúng ta không thể không chú ý tới yếu tố tôn giáo trong hoạt động doanh nghiệp. Nhất là trong hoàn cảnh kinh tế suy thoái và khủng hoảng của nhiều doanh nghiệp như hiện nay.
Trong phạm vi bài này, chúng tôi xin trình bày đề tài theo mấy ý chính sau đây:
Lời mở
1. Tình trạng suy thoái doanh nghiệp và yếu tố tôn giáo
2. Yếu tố tôn giáo trong doanh nghiệp qua trách nhiệm xã hội
Kết luận: Hướng tới một nền văn minh tình yêu.
1. Tình trạng suy thoái doanh nghiệp và yếu tố tôn giáo
1.1. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam
Trong phạm vi đề tài, chúng tôi chỉ lưu ý đến một vài số liệu cơ bản về doanh nghiệp (DN) sau đây.
Theo số liệu của Cục Quản lý Đăng ký Kinh doanh của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam: tính đến hết ngày 31/12/2015, trong tổng số 941.051 doanh nghiệp đã được thành lập, cả nước có 535.920 doanh nghiệp đang hoạt động chiếm 57% trên tổng số doanh nghiệp đã được thành lập, 16.673 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, 271.197 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, 117.261 doanh nghiệp đã giải thể (Nguồn: Cục Quản lý đăng ký kinh doanh,ngày 2/2/2016).
Trong cộng đồng DN Việt Nam thì DN nhỏ và vừa là loại hình DN chiếm đa số và chủ yếu trong nền kinh tế. Theo đó, loại hình DN này đóng vai trò quan trọng nhất là tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, xoá đói giảm nghèo… Cụ thể, về lao động, hàng năm tạo thêm trên nửa triệu lao động mới; sử dụng tới 51% lao động xã hội và đóng góp hơn 40% GDP (x.tapchitaichinh.vn).
Cục này cũng cho biết, năm 2011, tổng số DN phải giải thể, ngừng hoạt động là 53.972, tăng 24,8% so với năm 2010. Số DN phải đăng ký tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ thuế là 46.361, tăng 26,6% so với năm 2010 (x. http://www.thesaigontimes.vn/Home/doanhnghiep/quantri/102352/, Thực ảo số doanh nghiệp Việt Nam, ngày 10/9/2013).
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến ngày 30/11/2012, cả nước có 48.473 DN giải thể, tạm dừng hoạt động, trong đó 39.936 DN dừng hoạt động và 8.537 DN đã giải thể. Dự báo đến hết ngày 31/12/2012, con số DN giải thể, tạm ngừng hoạt động trên cả nước trong năm 2012 khoảng 55.000 DN
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, 9 tháng 2013, có 42.459 DN giải thể và tạm ngừng hoạt động, điều này cho thấy tình hình kinh tế vẫn còn rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, cũng có 11.299 DN quay trở lại hoạt động (Theo baodautu.vn ngày 26/9/2013).
Năm 2015, hoạt động của doanh nghiệp đã có những dấu hiệu khởi sắc so với thời điểm đầu năm 2014 và năm 2013. Trong khi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang tự chủ động tái cấu trúc để duy trì và tăng trưởng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vẫn tiếp tục khẳng định vai trò trong hoạt động xuất nhập khẩu thì khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được đặc biệt chú ý với quyết tâm thực hiện cổ phần hoá và thoái vốn Nhà nước trong giai đoạn 2014-2015 của chính phủ.
Theo báo cáo của Cục Quản lý Đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong năm 2015, cả nước có 94.754 doanh nghiệp được thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 601.519 tỷ đồng, tăng 26,6% về số doanh nghiệp và tăng 39,1% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Số lao động dự kiến được tạo việc làm của các doanh nghiệp thành lập mới là 1.471,92 nghìn lao động, tăng 34,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong năm nay, cả nước có 21.506 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 39,5% so với năm trước. Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh trong năm là 9.467 doanh nghiệp, giảm 0,4% so với năm trước. Xét theo quy mô vốn, trong năm 2015 số lượng doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm ngừng phần lớn là những doanh nghiệp có quy mô vốn đăng ký nhỏ dưới 10 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 93,5% trên tổng số doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm ngừng (cùng kỳ năm 2014 tỷ lệ này là 92,8%).
Tính chung 6 tháng đầu năm 2016, cả nước có 54.501 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 427,8 nghìn tỷ đồng, tăng 20% về số doanh nghiệp và tăng 51,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015. Số lượng doanh nghiệp và số vốn đăng ký 6 tháng đầu năm đều tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước.
Số doanh nghiệp ngừng hoạt động quay trở lại hoạt động trong 6 tháng đầu năm nay là 14.902 doanh nghiệp, tăng 75,2% so với cùng kỳ năm trước và là mức tăng cao nhất trong nhiều năm qua. Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh trong 6 tháng là 5.507 doanh nghiệp, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Số doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động trong 6 tháng đầu năm nay là 31.119 doanh nghiệp, tăng 15,0% so với cùng kỳ năm trước (x. Đức Minh, Bức tranh của kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm, Trí thức trẻ, web, ngày 28/11/2016).
1.2. Tình trạng khủng hoảng của doanh nghiệp Việt Nam trong trách nhiệm xã hội
Trong tình hình suy thoái kinh tế như hiện nay, việc thực hiện trách nhiệm xã hội của DN Việt Nam tương đối thấp như cha ông ta vẫn thường nói: “Đói ăn vụng, túng làm càn”.
– Đối với con người của chính doanh nghiệp: trách nhiệm xã hội của DN đối với chính những công nhân viên của mình là phải giáo dục nghề nghiệp, đào tạo chuyên môn để nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện làm việc an toàn, tốt đẹp cho sức khoẻ thể chất cũng như tinh thần, trả lương cân xứng, phát triển tình liên đới giữa các công nhân viên, xây dựng niềm hy vọng làm việc lâu dài nhờ sự bền vững của DN.
Nhưng trong thực tế nhiều DN không quan tâm đến trách nhiệm xã hội này: bóc lột sức lao động, không trả lương cân xứng, không ký hợp đồng lao động và bảo hiểm lao động cho công nhân viên. Công nhân viên phải làm việc trong những điều kiện và môi trường tồi tệ, dơ bẩn, thiếu cả những điều kiện vệ sinh tối thiểu. Một số ít DN còn làm ăn gian dối, chụp giựt, cung cấp những dịch vụ bẩn và đồi truỵ khiến nhân viên bị ảnh hưởng nặng nề về đạo đức nhất là trong các DN kinh doanh những ngành nghề “nhạy cảm” như nhà nghỉ, phòng trọ, khách sạn, quán karaoke, cà phê, bia, rượu, massage, phòng trà, phòng truy cập Internet, hớt tóc, giải phẫu thẩm mỹ. Nhiều DN không nghĩ đến việc làm ăn lâu dài, tạo uy tín với khách hàng bằng cách nâng cao chất lượng mà chỉ nghĩ đến lợi nhuận trước mắt, kiếm tiền thật nhanh rồi nếu cần giải thể để lập DN khác.
– Đối với con người trong xã hội: tức là người tiêu dùng và khách hàng, trách nhiệm xã hội đòi hỏi DN cung ứng sản phẩm, dịch vụ có chất lượng, an toàn, giá cả hợp lý. Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay, những sản phẩm độc hại, hàng giả, hàng nhái tràn lan khắp nơi từ những hàng bún có chất tintoral, hàn the, formol cho đến các nông sản, hải sản đầy chất hoá học, chất tăng trọng độc hại… Xã hội kinh hoàng về chuyện dịch vụ làm đẹp nguy hiểm, dịch vụ y tế không an toàn, nhiều người cung cấp dịch vụ y tế đánh mất y đức, gây chết người nhưng lại trốn tránh trách nhiệm. Việc tăng giá xăng, giá điện, phí dịch vụ 3G của các công ty truyền thông bất hợp lý chứng tỏ những DN độc quyền coi thường khách hàng và thiếu trách nhiệm xã hội.
– Đối với đất nước: DN có trách nhiệm phải đóng đủ các khoản thuế nhưng không ít DN tìm nhiều cách để trốn thuế. Nhiều cán bộ thu thuế đã tiếp tay cho các DN này bằng nhiều hình thức tham nhũng khác nhau. Như thế, trách nhiệm xã hội của DN đối với cộng đồng dân tộc không những không chu toàn mà còn làm hại nặng nề đến cộng đồng, vì nếu tận thu được những khoản thuế bất chính đó thì rất nhiều những người nghèo khổ, già yếu, mồ côi, khuyết tật sẽ nhận được những trợ cấp xã hội, không phải sống thiếu thốn và chịu đựng những thiệt thòi như hiện nay. Không ít những người nghèo khổ bị đẩy vào đường cùng phải bán rẻ nhân phẩm như mãi dâm, ma tuý, nghiện ngập số đề, số đuôi, phải lấy chồng nước ngoài, phải tìm mọi cách để đi làm ở nước ngoài trong chương trình xuất khẩu lao động vì mong được “đổi đời” do nền kinh tế suy thoái, thất nghiệp gia tăng.
– Đối với môi trường sống của cộng đồng: DN có trách nhiệm bảo vệ và làm phát triển môi trường sinh thái nhưng nhiều DN ở Việt Nam không có các hệ thống xử lý nước thải, chất thải, khí thải độc hại mà lại lén đổ trực tiếp ra các sông ngòi, hồ ao, đồng vắng, hoặc chôn giấu sơ sài trong những khu đất trống hoặc xả khí khói vào ban đêm ngay trong các khu dân cư gây nguy hại nặng nề cho sức khoẻ của dân chúng và tàn phá môi trường sống. Hàng trăm đập thuỷ điện vừa và nhỏ tàn phá những cánh rừng nguyên sinh, gây lũ lụt nghiêm trọng cho các tỉnh miền Trung, gây thiệt hại nặng nề cho sinh mạng, nhà cửa, ruộng vườn của đồng bào trong mấy năm gần đây phát xuất từ việc thiếu kế hoạch tổng quát và đồng bộ của chính quyền cũng như từ lòng tham lợi của những cá nhân và tập đoàn, nhóm lợi ích.
1.3. Nguyên nhân suy thoái kinh tế một phần là do tình trạng suy thoái về văn hoá và đạo đức
Tình trạng suy thoái trách nhiệm xã hội của các DN có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân như việc quản lý lỏng lẻo của chính quyền các cấp, do đồng vốn bị hạn chế, nguyên liệu khan hiếm, đồng tiền mất giá, công nợ phải trả, kỹ thuật sản xuất yếu kém, lực lượng lao động không được đào tạo chuyên môn… Tuy nhiên, nếu người ta hiểu rằng tất cả mọi hoạt động DN bắt nguồn từ chính con người và quy hướng về con người thì chúng ta phải nhận ra rằng tất cả sự suy thoái của nền kinh tế, và cụ thể là DN, là do chính con người Việt Nam đã bị suy thoái trầm trọng.
Thật vậy, khi con người chỉ biết có vật chất, đề cao vật chất như “một thứ Thần Tài” có thể giải quyết mọi khó khăn, thì sự suy đồi về luân lý và đạo đức chắc chắn sẽ xảy ra.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng phát biểu tại Hội nghị Tổng kết 15 năm Thực hiện Nghị quyết T.Ư 5 về xây dựng và phát triển nền văn hoá VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc diễn ra tại Hà Nội ngày 8/8/2013này: “Đạo đức-lối sống-nhân cách-văn hoá của người VN chúng ta nhiều nơi nhiều lúc vẫn chưa được quan tâm đúng mức, ngay từ nhà trường, gia đình, từ sự tự giác, giữ gìn xây dựng của mỗi con người. Sự tha hoá, lối sống xa hoa, giả dối, vô cảm có xu hướng phát triển. Bệnh thành tích và hình thức trong các hoạt động văn hoá ngày càng lan rộng. Những yếu kém nêu trên không chỉ hạn chế sự phát triển kinh tế xã hội, mà còn làm xấu hình ảnh đất nước, con người, văn hoá VN. Theo tôi, đây là nguy cơ, thậm chí còn là nguy cơ của mọi nguy cơ, trong bối cảnh chúng ta phải xây dựng và phát triển đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng” (x. http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130809/xay-dung-con-nguoi-van-hoa-la-kem-nhat.aspx).
Sự suy thoái đạo đức gây nên những hậu quả vô cùng tai hại trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là văn hoá vì văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Nếu người ta công nhận chức năng thẩm mỹ của văn hoá (x. Lê Văn Chưởng, Cơ sở Văn hoá Việt Nam, NXB Trẻ, 1999, tr.24) là chức năng tối thượng của văn hoá hướng con người tới Chân Thiện Mỹ thì một khi loại bỏ tôn giáo như giá trị của cái đúng, cái thiện và cái đẹp, con người sẽ tìm đến những cái giả dối, tàn ác, xấu xa như ta thấy đang xuất hiện trong cộng đồng xã hội hiện nay.
Nạn buôn gian bán dối, bán hàng độc hại, lương thực, nông sản, thuỷ sản chứa dư lượng các hoá chất nguy hiểm cho sự sống hầu như phổ biến khắp nơi do ước muốn làm giàu bằng bất cứ cách nào. Tệ nạn này có thể dẫn cả dân tộc suy yếu về sức khoẻ, bị đủ loại bệnh tật có thể dẫn đến diệt vong. Các quán nhậu, cà phê ôm, bia ôm, massge trá hình, mãi dâm nhan nhản khắp các thành phố, trị trấn, quận huyện như tạo điều kiện cho con người ăn chơi sa đoạ về đạo đức, tinh thần.
2. Yếu tố tôn giáo trong việc thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
2.1. Thành phần tôn giáo trong cơ cấu dân tộc và doanh nghiệp
Trước hết chúng ta tìm hiểu về thành phần tôn giáo trong cơ cấu dân tộc từ đó suy ra số lượng các DN được điều hành bởi các doanh nhân tôn giáo.
Theo Thống kê của Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam thực hiện ngày 01/4/2009, dân tộc VN có 13 tôn giáo. Số người theo tôn giáo cả nước chỉ chiếm 18,23% dân số gồm 15.651.467 người trên tổng dân số 85.846.997 tính vào thời điểm 1/4/2009. Trong số 13 tôn giáo, chúng ta thấy có Phật giáo chiếm 7,92%, Công giáo 6,61%, Hoà Hảo 1,66%, Cao Đài 0,94% và Tin Lành 0,85%. Các tôn giáo còn lại có số tín đồ rất ít. Có hơn 81% dân số đã kê khai không tôn giáo. Chỉ có 30 người không kê khai rõ ràng tôn giáo của mình (x. Ban Chỉ Đạo Tổng Điều tra Dân số, Kết quả Toàn bộ, NXB Thống Kê, Hà Nội 2010, tr. 281).
Trong số người khai “không tôn giáo”, có thể có một số đảng viên Đảng Cộng Sản, đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh gồm chừng vài triệu người, chọn lựa thái độ “vô thần” rõ rệt của mình đối với tôn giáo. Còn đại đa số trong 81% dân số này, dù không khai là đang theo một tôn giáo cụ thể nào, nhưng lại có một niềm tin mãnh liệt, mà người ta gọi là tín ngưỡng, có khi nói là mình theo “đạo tổ tiên, ông bà”. Chúng ta ghi nhận rằng trong tờ khai Điều tra dân số 2009 về tôn giáo không có mục “Đạo tổ tiên ông bà” hay “Vô thần”. Số người “không tôn giáo” này, gồm cả những đảng viên Cộng sản, vào những ngày lễ, Tết, đầu tháng hay giữa tháng Âm lịch, cũng có thể đi đền chùa, khiến người ta lầm tưởng họ theo Phật giáo. Nếu hỏi họ có phải là vô thần không thì nhiều người thú nhận là “không”.
Ta cũng nên lưu ý: nếu chỉ căn cứ vào số liệu thống kê này, người ta có thể đánh giá thấp vai trò của các tôn giáo trong đời sống xã hội vì ảnh hưởng chưa tới 20% dân số.
Thật ra, người VN có một lòng đạo đức sâu xa, hầu hết tin vào một Đấng Tối Cao, Đấng linh thiêng gọi là Trời, ông Trời, Chúa Trời, ông Thiên, Đức Thánh Alah, Đức Cao Đài… Đấng linh thiêng ấy là nền tảng cho đạo lý con người, giúp họ sống công minh, chính trực, ăn ở nhân nghĩa với nhau. Trong văn chương cũng như trong thực tế hằng ngày, nhiều người dân VN vẫn tin rằng “Trời cao có mắt”, “Thiên bất dung gian”, “lưới Trời lồng lộng”, “duyên Trời se định”… Các trẻ em vẫn còn hát những bài đồng dao như: Lạy Trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cày, Lấy đầy bát cơm, Lấy rơm đun bếp…
Để bảo vệ nền đạo đức dân tộc và gìn giữ bản sắc văn hoá của dân tộc, chúng ta cần phải để ý đến con người VN – nhất là những người trẻ trong xã hội hiện nay – đang được giáo dục như thế nào về niềm tin này. Sự suy thoái đạo đức và văn hoá hiện nay cũng phản ánh một nền giáo dục kém chất lượng mà cả xã hội quan tâm bàn đến rất nhiều trong thời gian vừa qua. Những bộ sách giáo khoa trong mấy chục năm gần đây, nhất là từ năm 1954 ở ngoài miền Bắc và 1975 trên toàn quốc VN, không còn những bài học đạo đức để cổ vũ cho niềm tin vào Đấng Linh Thiêng, trong khi chính niềm tin vào Đấng Linh Thiêng này đã giữ cho dân tộc VN tồn tại và phát triển trong suốt dòng lịch sử dân tộc.
2.2. Doanh nhân tôn giáo ở Việt Nam
Dù DN không công khai ý hướng tôn giáo trong hoạt động của mình, nhưng thực tế lại cho chúng ta thấy nhiều doanh nhân hoạt động theo tôn chỉ của tôn giáo họ theo và những DN này đã thực hiện trách nhiệm xã hội rất tốt. Dĩ nhiên không phải tất cả các doanh nhân có tôn giáo đều đem tôn chỉ tôn giáo vào trong hoạt động DN, nhưng khi các doanh nhân này ý thức về tín ngưỡng hay tôn giáo họ theo thì họ đều đem lại những nét tốt đẹp như công bằng, nhân ái, liêm chính trong hoạt động DN của mình, không phải vì những huy chương hay phần thưởng của bất cứ một tổ chức nào.
Nếu quan sát bên ngoài chúng ta cũng có thể suy đoán yếu tố tôn giáo của DN qua tên gọi, logo, bảng hiệu, màu sắc, cách bố trí cơ sở, cách trang trí nội thất trong các cơ sở ấy, những hoạt động xã hội và từ thiện của DN.
Trước hết, tên gọi của một số DN như “ngầm” giới thiệu hay nhắc nhở khách hàng về tôn giáo như một sự bảo đảm chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ. Thí dụ nhiều DN lấy tên thương hiệu như: Tôn Hoa Sen, Bệnh viện Vạn Hạnh, Nha khoa Vạn Hạnh, cơ sở Giác Ngộ, Giác Trí, Pháp Hoa, Vô Thường, Vô Lượng, Huệ Tâm, Huệ Nhãn… là của doanh nhân Phật giáo. Hay những DN mang tên như Bệnh viện Thánh Mẫu, Phòng khám Thiên An, Thiên Phước, Thiên Bình, các cơ sở Mai Tâm, Mai Khôi, Mai Hoà, Hồng ân, Hồng Phúc… là của các doanh nhân Công giáo. Nếu xem thêm các logo, bảng hiệu, ta còn thấy thêm những hình ảnh của Đức Phật Thích Ca, Phật Bà Quan Âm, toà sen, Vòng bánh xe luân hồi, màu cờ nhiều sắc… của Phật Giáo hoặc Hình Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria, thập giá, hoa hồng… của Công giáo hay cuốn Thánh Kinh mở ra của Tin Lành…
Trong các cơ sở sản xuất hay dịch vụ, người ta thấy có treo hình, đặt tượng tôn giáo. Có DN còn có phòng cầu nguyện dành cho công nhân viên, đặt những phút tịnh tâm trong giờ làm việc đầu ngày hay đầu buổi. Nhiều hoạt động mang tính cách tôn giáo được tổ chức cho công nhân viên như học hỏi giáo lý về cung cách làm việc, sản xuất giúp cho họ ý thức rằng mình làm việc không phải vì lợi nhuận nhất thời nhưng để tôn vinh Đấng Thiêng Liêng cũng như mưu ích cho toàn thể gia đình dân tộc và nhân loại nên có giá trị vĩnh hằng.
Người công nhân viên có ý thức tôn giáo sẽ tự nguyện làm việc với tinh thần trách nhiệm cao độ, tình nguyện làm những công việc khó khăn, nguy hiểm, sẵn sàng đóng góp những lợi nhuận cho các công cuộc xã hội, từ thiện. Trong những doanh nghiệp ấy, người ta thấy có tinh thần đoàn kết, chia sẻ và yêu thương giữa các công nhân viên cũng như với ban giám đốc điều hành hơn những doanh nghiệp khác. Đây không phải là giới chủ dùng tôn giáo để khai thác, bóc lột giới thợ thuyền của vài thế kỷ trước, vào thời của Karl Marx (1818-1883), Friedrich Engels (1820-1895), nhưng là sự tự nguyện của mọi người trong doanh nghiệp khi ý thức được hoạt động doanh nghiệp của mình có giá trị tôn giáo.
Các tổ chức đoàn thể tôn giáo dành cho các doanh nhân đã có mặt hầu như khắp miền đất nước và công khai trên những phương tiện truyền thông xã hội, đặc biệt là 3 tôn giáo lớn: Công giáo, Tin Lành, Phật giáo.
Doanh nhân Công giáo là tổ chức đoàn thể có mặt tại hầu hết 26 giáo phận ở Việt Nam, trong đó hoạt động mạnh nhất ở TP.HCM với khoảng 300 doanh nhân ghi danh tham dự. Đoàn thể này ở TP.HCM được thành lập vào năm 2003. Các thành viên họp nhau hằng tháng để học hỏi về những đề tài có liên quan đến đời sống doanh nghiệp, giúp đỡ nhau trong các hoạt động kinh doanh, chia sẻ kinh nghiệm điều hành doanh nghiệp. Họ thực hiện rất tốt trách nhiệm xã hội như hỗ trợ học bổng cho 200 sinh viên nghèo hằng năm không phân biệt tôn giáo từ 8 năm qua, đồng hành với các chương trình bác ái của Tổng giáo phận TP.HCM, chăm sóc các bệnh nhân nghèo, những người cơ nhỡ, dạy các lớp học buổi tối cho các người lao động nhập cư, giúp đỡ các mái ấm của những em cô nhi, mồ côi, khuyết tật, người nhiễm HIV, mái ấm bảo vệ sự sống cho các bà mẹ đơn thân, cộng tác với đoàn bác sĩ Công giáo khám bệnh thường xuyên cho đồng bào vùng sâu, vùng xa…Đặc biệt là họ có cả một tập sách “Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo” do Giáo hội Công giáo phổ biến để hướng dẫn họ rất đầy đủ về các hoạt động trong lĩnh vực xã hội như con người và nhân quyền, gia đình, lao động, kinh tế, xã hội dân sự, cộng đồng quốc tế, bảo vệ môi trường, cổ vũ hoà bình.
Doanh nhân Phật tử cũng có những bài học thiết thực để áp dụng trong hoạt động kinh doanh. Hoà thượng Thích Trí Quảng đã giảng dạy các doanh nhân: “Từ hàng ngàn năm trước, với tuệ giác của Đức Thế Tôn, Ngài đã nhận thấy vai trò quan trọng của doanh nhân trong việc phát triển xã hội, nên Ngài đã đưa ra những lời răn dạy rất thiết thực và hữu ích cho giới này trong việc buôn bán. Theo Phật, một doanh nhân phải làm ăn chân chính để đem lại đời sống vật chất đầy đủ cho gia đình và đóng góp vào sự thịnh vượng cho xã hội. Ngoài ra, họ phải biết phân biệt phải trái, thiện ác, hoạ phúc. Vì vậy, để làm giàu một cách chân chính, doanh nhân cần phải tuân thủ pháp luật, thể hiện các nguyên tắc đạo đức mà điển hình là đức tính chân thật, quảng cáo hàng mẫu như thế nào thì hàng bán ra phải có chất lượng đúng tiêu chuẩn như vậy, hay tốt hơn mới giữ được uy tín của mình và con cháu sau này. Có thể khẳng định rằng kinh doanh theo Phật giáo không chỉ nghĩ đến hiện tại mà còn nghĩ đến lợi ích lâu dài cho những thế hệ kế tiếp, cho nên không bao giờ được phép lừa dối, hay khai thác bừa bãi. Ngoài ra, doanh nhân Phật tử phải biết chia sẻ những thành quả gặt hái được với những người đồng sự và giúp đỡ những người kém may mắn cũng như đóng góp những lợi ích cho an sinh xã hội.
Ngày nay trong bối cảnh đầy biến động về thị trường, giá cả, cạnh tranh khốc liệt thường được diễn tả rằng thương trường là chiến trường, thế giới mới gióng lên hồi chuông báo động đỏ đối với các loại tội phạm kinh tế. Trong khi Đức Thế Tôn từ hàng ngàn năm trước, với tầm nhìn sáng suốt hoàn hảo, Ngài đã răn dạy cư sĩ Phật tử không được phạm các tội cực kỳ nguy hiểm, đó là không được buôn bán đao kiếm, buôn bán người, buôn bán thịt, buôn bán rượu và buôn bán thuốc độc” (Tăng chi bộ II, chương 5, phẩm Nam cư sĩ, phần Người buôn bán, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.646) – (Nguồn: giacngo.vn).
2.3. Doanh nghiệp Hàn Quốc và yếu tố tôn giáo như 1 thí dụ điển hình
Chúng tôi muốn đưa ra một thí dụ điển hình về sự tăng trưởng của các DN Hàn Quốc có liên quan đến yếu tố tôn giáo để mời gọi cộng đồng xã hội quan tâm hơn tới tôn giáo ở Việt Nam. Trong lịch sử dân tộc, cả hai nước có nhiều điểm giống nhau như cùng bị người Trung Quốc đô hộ nhiều thế kỷ, cùng chịu ảnh hưởng của Tam giáo Đông Phương: Phật-Nho-Lão, cùng bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc chiến tranh ý thức hệ Tư bản-Cộng sản, cùng bị chia đôi đất nước.
Vào năm 1949, số người theo Thiên Chúa giáo ở Hàn quốc chỉ chiếm khoảng 1% dân số, đa số theo Phật giáo hoặc không tôn giáo. Vào năm 2005, ở Hàn Quốc có 46,5% dân số không theo tôn giáo, 22,8% theo Phật giáo, 18,3% theo Tin Lành, 10,9% theo Công giáo, 1,5% theo các tôn giáo khác (www.wikipedia.org/wiki/religion-in -South-Korea). Tính đến ngày 7/5/2013, số người Công giáo chiếm 12% và người Tin Lành chiếm 18% (x. http://askakorean.blogspot.com). Số người theo Thiên Chúa giáo đã đóng góp khá nhiều để làm nên sự tăng trưởng kinh tế đặc biệt của Hàn quốc dù ít ai quan tâm đến vấn đề này. Cung cách sống và làm việc của người Thiên Chúa giáo được người Hàn quốc đón nhận đã làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt đất nước Hàn quốc trong vòng vài chục năm qua.
“Nếu 30 năm trước, kinh tế Hàn Quốc bị tàn phá nặng nề sau thời kỳ bị xâm chiếm và chiến tranh, tài nguyên không có gì đặc biệt, nguồn vốn quốc nội hết sức nghèo nàn, thu nhập quốc dân tính theo đầu người (GNP) những năm đầu thập niên 60 của Hàn Quốc chỉ là 80USD, GDP chỉ đứng ngang với các nước nghèo ở châu Phi và châu Á, thì đến giờ, GDP Hàn Quốc xếp thứ 10 trên thế giới, thu nhập bình quân đầu người theo GDP khoảng 16.000USD. Hàn Quốc cũng thuộc vào hàng các nước dẫn đầu về thương mại. Một phân tích gần đây nhất bởi Goldman Sachs năm 2007 đã chỉ ra Hàn Quốc sẽ trở thành nước giàu thứ 3 trên thế giới vào năm 2025 với GDP bình quân đầu người là 52.000USD và tiếp 25 năm sau nữa sẽ vượt qua tất cả các nước, ngoại trừ Hoa Kỳ, để trở thành nước giàu thứ hai trên thế giới, với GDP bình quân đầu người là 81.000USD (x. http://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_te_Han_Quoc ).
Vậy yếu tố nào đã khiến Hàn Quốc vực dậy nhanh chóng về mọi mặt, kinh tế phát triển thần kỳ mà thế giới biết đến như “kỳ tích sông Hàn”? Nói về nguyên nhân kinh tế Hàn Quốc phát triển nhanh, có nhiều nguyên nhân hợp lý song chúng tôi đề cập đến 3 động lực chính sau đây:
1. Vai trò quyết định thuộc về chính phủ:
Chính phủ Hàn Quốc đã xác định được các mục tiêu dài hạn, ngắn hạn phù hợp với từng yêu cầu của từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế đất nước
2. Góp phần làm nên kỳ tích chính là nhân tố con người Hàn Quốc
Đất nước Hàn Quốc nghèo tài nguyên nên con người cần cù, chịu khó và chăm chỉ trong lao động; biết tận dụng các nguồn lực nội tại và tiết kiệm để phát triển kinh tế. Người Hàn Quốc có lối sống và làm việc nhanh nhẹn, gấp gáp. Đã từ lâu, Hàn Quốc biết nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của giáo dục đào tạo với tương lai, triển vọng của đất nước. Cũng không thể bỏ qua những nét văn hoá truyền thống tôn sư trọng đạo, đề cao chủ nghĩa dân tộc, tinh thần phấn đấu vươn lên mạnh mẽ và một ý chí thép, trong đó có cả lòng tự tôn dân tộc.
3. Yếu tố nước ngoài
Sau cùng, chúng tôi cũng muốn đề cập thêm đến một yếu tố mang tính thời đại đó là việc Hàn Quốc đã tận dụng những lợi thế của mình để đem về những nguồn lợi từ nước ngoài. Cụ thể, do bối cảnh lịch sử, Hàn Quốc đã tranh thủ được nhiều sự giúp đỡ tài chính của Mỹ thông qua chiến tranh Việt Nam và tiền bồi thường thiệt hại từ Nhật Bản, vay vốn của Ngân hàng Tài chính Thế giới” (x. http://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_te_Han_Quoc).
Từ bài học về nền kinh tế Hàn Quốc, những doanh nhân tôn giáo ở Việt Nam có thể học và áp dụng thử giải pháp của anh chị em Công giáo Hàn Quốc về lĩnh vực kinh tế. Những người chủ siêu thị Công giáo Hàn Quốc liên kết với nhau để mua trực tiếp nông sản của các nông dân Công giáo với giá cao, với điều kiện là hàng hoá phải bảo đảm chất lượng, không có thuốc trừ sâu hay tăng trưởng độc hại. Để trợ giúp nông dân, các công ty lớn của người Công giáo Hàn Quốc gửi kỹ sư về miền quê để dạy nông dân kỹ thuật trồng trọt, bón phân, cho vay vốn với lãi xuất thấp để mua cây trồng, phân bón nên năng suất cao, chất lượng tốt. Nhiều nông dân không phải Công Giáo thấy lợi cũng xin gia nhập tổ chức liên kết này rồi dần dần có cảm tình và theo đạo. Trong khi đó, hàng nông sản của người nông dân bán ở các siêu thị Công Giáo lại rẻ vì không phải qua nhiều khâu trung gian, chất lượng cao nên càng được uy tín trong cộng đồng xã hội. Chính vì thế tỷ lệ người Công giáo Hàn quốc càng ngày càng tăng và Giáo hội Công giáo Hàn Quốc quyết tâm sẽ sống thật tốt đẹp để tăng số tín hữu Công giáo đến 20% dân số vào cuối năm 2020.
2.4. Những đường hướng đề nghị
Sau khi phân tích yếu tố tôn giáo trong việc thực thi trách nhiện xã hội của DN, chúng tôi mạnh dạn đề nghị với cộng đồng xã hội, nhất là các cấp chính quyền, các tổ chức xã hội ở Việt Nam mấy đề nghị sau đây:
1. Xây dựng tôn giáo như là một nét văn hoá mới để phục hồi con người liêm chính, nhân ái trong hoạt động doanh nghiệp.
2. Cổ vũ những doanh nhân có tôn giáo trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội.
3. Cổ vũ những hoạt động cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp do doanh nhân có tôn giáo điều hành.
Khi thấy chúng tôi cổ vũ cho các giá trị văn hoá của tôn giáo, một số người không theo tôn giáo nào có thể khó chịu vì nghĩ rằng chúng tôi đang muốn đưa con người trở về tình trạng “vong thân”, đánh mất chính mình, do tôn giáo gây nên, của vài thế kỷ trước.
Thật ra, chúng tôi chỉ muốn mời gọi tất cả những ai yêu mến quê hương hãy nhìn vào dân tộc VN như một điểm quy chiếu cho hoạt động của mình để thấy rằng niềm tin tôn giáo có thể giúp con người vượt qua tình trạng vong thân đang rất phổ biến ở VN vì sùng bái vật chất hay khoa học kỹ thuật để tìm lại được chính con người cao quý, toàn diện của mình.
Cao quý vì con người mới là chủ thể của mọi hành động đầy ý thức và tự do trong mối tương quan với người khác, với vạn vật, với chính mình và với cả Đấng Thiêng Liêng mà tổ tiên chúng ta gọi là Trời. Toàn diện, vì con người sẽ phát huy mọi giá trị trong lĩnh vực thể xác và tinh thần, nội tâm và ngoại giới, tự nhiên và siêu nhiên, cá nhân và tập thể, nghĩa là mọi lĩnh vực mà văn hoá có thể vươn tới. Đó chính là chúng ta đang xây dựng một nền văn hoá “nhân bản” lấy con người làm gốc và quy hướng về con người mà Giáo hội Công giáo đang muốn xây dựng trong một nền nhân bản toàn diện và liên đới cho con người (x. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Tóm lược Học Thuyết Xã hội Công giáo, số 1-19, số 20-59, số 105-159).
Kết luận
Nhân dịp tìm hiểu yếu tố tôn giáo trong hoạt động doanh nghiệp ở Việt Nam, chúng tôi thấy cần phải cổ vũ cho một nền văn minh tình yêu. Trong nền văn minh này, chúng ta lấy tình yêu là nền tảng để xây dựng mọi mối tương quan của con người, là tiêu chuẩn để phán đoán mọi hành động nhân linh và là cùng đích để mọi hoạt động của con người hướng đến.
Tình yêu này không phải là những rung động nhất thời của con người, dù mãnh liệt nhưng vẫn bị giới hạn bởi vật chất, không gian, thời gian, nhưng bắt nguồn từ một thực thể siêu việt, vĩnh hằng, vô biên, vô tận mà tổ tiên chúng ta vẫn luôn tin tưởng, tôn thờ. Thật vậy chỉ khi nào mỗi người Việt Nam chúng ta yêu đồng bào, yêu núi sông đất nước bằng một tình yêu trong sáng, quảng đại với những hành động tốt đẹp dành cho nhau, thì chúng ta chắc chắn sẽ vực dậy được nền đạo đức suy đồi, bảo vệ được đất nước và phát triển dân tộc bền vững. Tình yêu ấy phải bắt đầu ngay ở nơi đây và ngay từ hôm nay.