23/12/2024

Tầm nguyên các vụ ly khai trong lịch sử Kitô giáo: Giáo hội Chính thống

Trong các ngày từ ngày 18 tới 25 tháng giêng là tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các Kitô hữu với đề tài “Được mời gọi để loan báo cho tất cả mọi người các kỳ công của Chúa”. Nhân dịp này, kính mời quý vị cùng chúng tôi truy tầm nguồn gốc các vụ ly giáo khiến cho Kitô giáo bị chia rẽ lớn trong dòng lịch sử của mình.

Tầm nguyên các vụ ly khai trong lịch sử Kitô giáo: Giáo hội Chính thống
 
Trong các ngày từ ngày 18  tới 25 tháng giêng là tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các Kitô hữu với đề tài “Được mời gọi để loan báo cho tất cả mọi người các kỳ công của Chúa”. Nhân dịp này, kính mời quý vị cùng chúng tôi truy tầm nguồn gốc các vụ ly giáo khiến cho Kitô giáo bị chia rẽ lớn trong dòng lịch sử của mình. Có ba vụ ly giáo trầm trọng nhất: trước hết là vụ ly giáo giữa Giáo hội Công giáo và Giáo hội Chính thống năm 1054, rồi vụ ly giáo của Giáo hội Tin Lành do Martin Luther khởi xướng năm 1517 và vụ ly khai của Anh giáo do vua Henry VIII quyết định năm 1534.

Kitô giáo đã do Chúa Kitô thành lập tại Palestina trong 3 năm rong ruổi rao truyền Tin Mừng, xua trừ quỷ dữ và chữa lành tật bệnh. Chúa Giêsu đã tuyển chọn Đoàn Mười Hai Tông Đồ và các môn đệ để các vị cộng tác với Ngài, và truớc khi về Trời, Ngài đã truyền cho các vị “ra đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 2819-20). Sau khi nhận được Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần, các vị bắt đầu thi hành sứ mệnh này, như kể trong chương 2 sách Tông đồ Công vụ. Từ đó Kitô giáo bắt đầu lan nhanh, không chỉ trong đất Palestina, nhưng cả trong nhiều vùng khác nữa bên Tiểu Á và lan sang cả Roma thủ đô của đế quốc. Năm 313, sau khi Hoàng đế Costantino ký sắc lệnh Milano huỷ bỏ bắt đạo, Kitô giáo bắt đầu phát triển mạnh và nhanh  hơn. Năm 330, Hoàng đế Costantino xây thành phố mang tên mình là Costantinopoli và tuyên bố nó là thủ đô thứ hai của đế quốc với tước hiệu là “Roma mới”. Năm 395, sau khi Hoàng đế Teodosio qua đời, đế quốc Roma bị chia  thành hai miền Đông và Tây. Nhưng ngay trong các năm cuối cùng của Đế quốc, quyền bính chính trị, văn hoá và tôn giáo bắt đầu ngày càng di chuyển sang phía Đông. Thế rồi khi Đế quốc bên Tây sụp đổ năm 476, Đế quốc bên Đông và đặc biệt là Costantinopoli ngày càng chiếm địa vị quan trọng. Sự chia rẽ cũng ngày càng gia tăng, vì bên Tây nói tiếng Latinh, trong khi bên Đông nói tiếng Hylạp. Tất cả các yếu tố này khiến nảy sinh ra 8 cuộc ly khai trong 8 thế kỷ giữa Roma và Costantinopoli.

Thật ra, ngay trong các thế kỷ đầu đã xảy ra các chia rẽ giữa các Kitô hữu. Năm 451, sau Công đồng chung Calcedonia đã xảy ra sự chia rẽ đầu tiên, bởi vì vài Giáo hội Đông phương không chấp nhận các kết luận của Công đồng này. Thế là nảy sinh ra các Giáo hội Đông phương Cổ gồm Giáo hội Sirô Chính thống Syria, Giáo hội Assirrô hay Caldea bên Ba Tư, tức Iran ngày nay, Giáo hội Sirô Chính thống bên Ấn Độ, Giáo hội Armeni bên Armenia, Giáo hội Copte bên Ai Cập và Giáo hội Etiopi bên Etiopia.

Năm 691-692, Giáo hội Bisantin cử hành Công đồng Trullano đưa ra 102 khoản luật và thực hiện một cuộc cải cách, nhưng không được Giáo hội Tây phương chấp nhận. Lễ Giáng Sinh năm 800, khi Hoàng đế Carlomagno, vua người Franc bên Pháp từ năm 768 và vua người Longobardi bên Italia từ năm 774, được Đức Giáo hoàng Leo III đội triều thiên đăng quang hoàng đế của Đế quốc Thánh Roma trong Đền thờ Thánh Phêrô, thì Đông phương mất dần quyền tối thượng bênh vực Kitô giáo của mình, và nhường chỗ cho Tây phương. Vào khoảng năm 1.000, các hiểu lầm ngày càng trở nên sâu đậm, đến độ ĐGH Leo X đã phải gửi một phái đoàn sang Costantinopoli để tái lập các liên lạc giữa Giáo hội Roma và Giáo hội Đông phương. Phái đoàn Roma do ĐHY Umberto da Silva Candida hướng dẫn. Nhưng trong thực tế cuộc gặp gỡ giữa các sứ bộ của Đức Giáo hoàng và Đức Thượng phụ Costantinopoli Michele Cerulario đã có các hiệu quả trái nghịch dẫn đưa tới thất bại.

Ngày 16 tháng 7 năm 1054, hai phái đoàn Roma và Costanttinopoli ra vạ tuyệt thông cho nhau. Thế là xảy ra cuộc chia rẽ lớn nhất trong lịch sử của Kitô giáo. Kể từ đó Kitô giáo chia thành hai nhánh: Giáo hội Công giáo, tức đại đồng, bên Tây phương, và Giáo hội Chính thống, tức trung thành với giáo lý đích thực, bên Đông phương.

Có hai lý do chính dẫn tới sự chia rẽ này: thứ nhất là vấn đề “Quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng” và thứ hai là từ “Filioque” thêm vào Kinh Tin Kính Niceno-Costantinopoli. Trong hai Công đồng chung Nicea năm 325 và Costantinopoli năm 381, Giáo Hội đã đưa công thức Kinh Tin Kinh. Công đồng chung thứ ba nhóm tại Êphêxô đã thiết định rằng Kinh Tin Kính không thể được thay đổi nữa. Tại Toledo của Tây Ban Nha, tức bên Tây phương, vào năm 587, các Kitô hữu đã thêm vào từ “Filioque” để ám chỉ rằng Chúa Thánh Thần bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, và được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Mục đích của việc thêm vào này là để chống lại lạc thuyết của Ario là đan sĩ, giám mục và thần học gia, sống giữa các năm 256-336, cho rằng bản tính thiên chúa của Chúa Con thấp hơn bản tính thiên Chúa của Thiên Chúa Cha, và vì thế đã có một thời trong đó Ngôi Lời của Thiên Chúa đã không hiện hữu, và vì vậy đã được tạo dựng sau đó. Chỉ vào năm 1014 từ này mới được dùng trong Kinh Tin Kính và chỉ vào năm 1274 trong Công đồng Lyon nó mới được chính thức đưa vào trong Kinh Tin Kính.

Liên quan tới “quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng, người kế vị Thánh Phêrô, các văn bản Phúc Âm cho thấy rõ ràng tông đồ Phêrô đã có một vai trò hàng đầu so với mười một tông đồ khác. Sau khi Chúa Giêsu về Trời, các Tông đồ đã hướng tới Phêrô để có một hướng dẫn trong vài thời điểm quan trọng.

Trước khi qua đời, các Tông đồ đã chọn các người kế vị là các giám mục. Trong tất cả các giám mục, người kế vị Tông Đồ Phêrô đã tiếp tục có quyền bính cao hơn và được gọi là Giáo hoàng để phân biệt với các giám mục khác. Như thế, Giáo hoàng là thủ lãnh của Giáo Hội, vì là người kế vị Tông Đồ Phêrô. Đối với các Kitô hữu Đông phương, trong thời gian trước khi xảy ra vụ ly khai lớn, Đức Giáo hoàng đã không được coi là đầu của toàn thể Giáo Hội, kể cả Giáo hội Đông phương. Đối với họ, nếu phải có một vị lãnh đạo, thì vị đó phải là Đức Thượng phụ của thành phố quan trọng nhất, nơi hoàng đế sinh sống, tức là Đức Thượng phụ Costantinopoli. Vì thế họ cho việc Đức Giáo hoàng đòi có quyền trên 4 toà thượng phụ khác là không đúng. Tưởng cũng nên ghi nhận rằng vào thời hai Giáo hội Đông Tây ra vạ tuyệt thông cho nhau, ĐGH Leo III đã qua đời, quyền bính của ĐHY Umberto, đặc sứ của ĐGH cũng suy giảm, và vì thế đã không thể ra vạ tuyệt thông cho Đức Thượng phụ Cerulario. Hơn nữa, đã không có Công đồng chung nào đã ra vạ tuyệt thông cho Giáo hội kia. Nhiều Giáo hội Đông phương khẳng định rằng họ vẫn hiệp thông với Giáo hội Tây phương, mặc dù các Giáo Hội này không là thành phần của Giáo Hội Chính thống. Các biến cố tiếp theo như các các cuộc thập tự chinh lại càng làm cho Đông và Tây xa nhau hơn nữa. Đặc biệt cuộc thập tự chinh năm 1204 đã gia tăng sự chia rẽ này giữa hai bên, vì các binh sĩ thập tự quân Công giáo đã đánh chiếm thành Costantinopoli, cướp bóc và tàn sát các Kitô hữu Chính thống. Sau cùng, biến cố Costantinopoli rơi vào tay quân Hồi Ottoman, Thổ Nhĩ Kỳ, năm 1453 đã không cho phép các cuộc tiếp cận giữa Roma và Costantinopoli, nghĩa là giữa các tín hữu Công giáo và các tín hữu Chính thống. Vì thế bắt đầu từ thế kỷ XV, hai Giáo Hội ngày càng xa rời nhau hơn.

Thế rồi từ năm 1917 trở đi, và nói chung từ năm 1944, chế độ cộng sản Liên Xô đã khiến cho các Giáo hội Chính thống của Nga và của vùng Tây Âu châu phải sống dưới sự kìm kẹp và bị điều kiện hoá trầm trọng. Sự kiện này xem ra đã khiến cho người ra nghĩ rằng Đông phương đã trở thành vô thần và đã khiến cho Giáo hội Công giáo coi Đông phương là đất truyền giáo, đến độ năm 1992, các Thượng phụ nhóm họp tại Costantinopoli đã phản đối chống lại các hoạt động truyền giáo, cho rằng Giáo hội Công giáo tìm chiêu dụ tín đồ gây thiệt hại cho lộ trình hoà giải các Kitô hữu Đông phương và các Kitô hữu Tây phương.

Sự kiện đó là cho tới nay Giáo hội Tây phương và Giáo hội Đông phương vẫn còn chia rẽ và mỗi Giáo Hội tự định nghĩa là “Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Điều này gợi ý rằng với cuộc Ly giáo chính phía bên kia đã bỏ Giáo Hội đích thực. Do đó các tín hữu Công giáo gọi cuộc Ly giáo là “Cuộc ly giáo lớn của Đông phương”, trong khi các tín hữu chính thống thì nói đó là “Cuộc Ly giáo của người Latinh”.

Sau đây là các nét chính yếu diễn tả bản chất của Giáo hội Công giáo: Các điểm quy chiếu của Giáo Hội là Thánh Kinh, Truyền Thống, trung thành với các lễ nghi, việc tôn kính Đức Maria và các Thánh, và Huấn Quyền của đức giáo hoàng diễn tả quyền tối thượng của Thánh Phêrô, quyền giáo huấn của các giám mục và các linh mục. Giáo Hội có các cộng đoàn tu sĩ, các đan sĩ và giáo dân nam nữ. Hàng giáo sĩ và tu sĩ sống độc thân. Có 7 bí tích: Rửa Tội, Thánh Thể, Thêm Sức, Giải Tội hay Hoà Giải, Truyền Chức Thánh, Hôn Phối và Xức Dầu Bệnh Nhân. Tín hữu Công giáo tin và sùng kính Đức Maria như là Mẹ Thiên Chúa. Lễ nghi Phụng vụ là Thánh lễ ngày thường và lễ trọng. Tham dự lễ trọng là điều luật, quy chiếu Mười Điều Răn dạy thánh hoá các ngày lễ. Trong Thánh lễ, việc thánh hoá hay truyền Phép bánh và rượu được cử hành trước tín hữu và bánh thánh là bánh không men. Phụng vụ được tất cả mọi tín hữu tham dự tích cực. Các nhà thờ có nhiều ảnh tuợng và hình vẽ diễn tả các chuyện Thánh Kinh, Đức Mẹ và các Thánh.

Và sau đây là các đặc thái của Giáo hội Chính thống. Các điểm quy chiếu của Giáo Hội là Thánh Kinh, Truyền Thống, trung thành với các lễ nghi, việc tôn kính Đức Maria và các Thánh. Thánh công đồng quy tụ các thượng phụ và các giám mục. Các linh mục có quyền lập gia đình, nhưng không được làm giám mục. Các linh mục nào muốn làm giám mục phải sống độc thân. Các cộng đoàn đan sĩ rất đông đảo và quan trọng, các vị không được lập gia đình. Giáo hội Chính thống cũng có 7 bí tích như Giáo hội Công giáo. Tín hữu cũng tin và sùng kính Đức Maria như Mẹ Thiên Chúa. Thánh lễ chỉ được cử hành ngày Chúa Nhật và không có luật buộc tham dự. Lễ nghi Thánh Thể rất dài và phức tạp. Trong thánh lễ, việc truyền phép được thực thi sau một bức màn, giống như các tư tế Do Thái khi họ cầu nguyện trước Hòm Bia Giao Ước. Bánh dùng là bánh có men thường. Các nhà thờ Chính thống có các ảnh Icone vẽ trên gỗ.

Như thế, đâu là những khác biệt chính giữa Giáo hội Công giáo và Giáo hội Chính thống?

Liên quan tới quyền tối thượng của đức giáo hoàng, Giáo hội Công giáo dựa trên việc kế vị Thánh Phêrô và tin vào quyền này của người kế vị thánh nhân. Giáo hội Chính thống không chấp nhận sự kiện này. Mỗi Giáo hội Chính thống tự quản trị mình.  Liên quan tới quyền không thể sai lầm của đức giáo hoàng, Giáo hội Công giáo chấp nhận khi ĐGH tuyên bố các tín điều. Giáo hội Chính thống không chấp nhận quyền này. Liên quan tới từ “Filioque”, Giáo hội Công giáo đã thêm vào Kinh Tin Kính trong Công đồng Toledo năm 587. Trong Kinh Tin Kính của Giáo hội Chính thống không có từ “Filioque”. Ngôn ngữ sử dụng trong phụng vụ của Giáo hội Công giáo là tiếng Latinh hay các tiếng bản xứ. Giáo hội Chính thống dùng tiếng Hy Lạp trong phụng vụ. Trong Giáo hội Công giáo, hàng giáo sĩ bắt buộc phải sống độc thân. Trong Giáo hội Chính thống, các linh mục được quyền lập gia đình, ngoại trừ các giám mục và các đan sĩ phải sống độc thân. Giáo hội Công giáo không chấp nhận ly dị. Giáo hội Chính thống chấp nhận ly dị. Các linh mục Công giáo có thể để râu, các linh mục Chính thống thường để râu dài. Trong các nhà thờ Công giáo có các tượng ảnh thánh và hình vẽ, trong các nhà thờ Chính thống chỉ có các icone, tức các hình vẽ trên gỗ là các cửa sổ mở lên trời. Giáo hội Công giáo có tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyên tội và Đức Mẹ hồn xác lên Trời, Giáo hội Chính thống không chấp nhận hai tín diều này. Giáo hội Công giáo thừa nhận có Luyện ngục, Giáo hội Chính thống không thừa nhận Luyện ngục. Giáo hội Công giáo có tất cả 21 Công đồng. Giáo hội Chính thống chỉ có 7 Công đồng đầu tiên. Giáo hội Công giáo cử hành Thánh Thể với bánh không men, Giáo hội Chính thống cử hành Thánh Thể với bánh mì, tức bánh có men.

Tưởng cũng nên ghi nhận rằng ngay từ trước vụ ly khai năm 1054, các Giáo hội Đông phương đã không thừa nhận quyền tối thượng của đức giáo hoàng, người kế vị Thánh Phêrô, từ “Filioque” trong Kinh Tin Kính, Luyện ngục trong giáo lý và bánh không men trong việc cử hành thánh lễ.

Mỗi Giáo hội Chính thống tự quản gồm Công nghị các Giám mục do một thượng phụ lãnh đạo của một Giáo Hội quan trọng chủ sự. Các Giáo hội Chính thống chính gồm Giáo hội Chính thống Costantinopoli với đức thượng phụ là thủ lãnh danh dự của Chính thống giáo toàn thế giới, Giáo hội Chính thống  Alesandira, Hylạp, Rumania, Serbia, Nga và Bulgaria.

 

Linh Tiến Khải