Các công đồng chung và các thượng hội đồng trong lịch sử GHCG
Nhân dịp bế mạc Thượng Hội đồng Giám mục thế giới lần thứ XIV về gia đình, chúng tôi xin giới thiệu với các bạn chương 4 của cuốn Niên Giám Giáo hội Công giáo Việt Nam 2015 về các công đồng chung và các thượng hội đồng trong lịch sử 2000 năm của Giáo Hội Công giáo.
Các công đồng chung và các thượng hội đồng trong lịch sử GHCG
I. MỘT VÀI KHÁI NIỆM VỀ CÔNG ĐỒNG
Định nghĩa Công đồng
Là một hội nghị gồm các giám mục cùng một số bề trên của các tổ chức tu trì trong Giáo Hội chính thức nhóm họp để bàn luận và quyết định những vấn đề thuộc giáo lý đức tin hay sinh hoạt của Giáo Hội.
Phân loại
Công đồng có nhiều cấp bậc khác nhau, bao gồm trong hai loại tổng quát: công đồng chung và công đồng riêng.
Công đồng chung: còn gọi là công đồng phổ quát. Từ khi có phong trào hợp nhất các Kitô hữu, người ta còn gọi là công đồng đại kết. Đây là hội nghị các giám mục toàn cầu, với sự góp mặt của các bề trên cao cấp trong các tổ chức tu trì, dưới sự chủ toạ đích thân của giám mục Rôma hay qua các đặc sứ của ngài (x. GH 22). Trước CĐ. Vaticanô II, chỉ có giám mục chính toà mới có quyền tham dự công đồng chung. Từ nay mọi giám mục đều có quyền tham dự công đồng vì là thành phần của giám mục đoàn (x. GM 4).
Công đồng riêng: là một hội nghị gồm các giám mục của một miền đất nào đó trong Giáo Hội. Người ta phân biệt: công đồng giáo tỉnh gồm các giám mục trong một miền, một giáo tỉnh dưới quyền chủ toạ của một tổng giám mục hay giám mục trưởng giáo tỉnh. Công đồng liên giáo tỉnh hay đại công đồng nếu hội nghị gồm các giám mục của nhiều giáo tỉnh khác nhau dưới quyền chủ toạ của một sứ thần Toà Thánh. Ta cũng có thể kể thêm công đồng toàn quốc, công đồng toàn miền. Ngoài ra, còn có hội nghị khác của các giám mục gọi là thượng hội đồng, hội nghị hay công nghị giám mục. Công nghị giáo phận (x. GL. đ. 460) dùng để chỉ phiên họp của vị giám mục giáo phận với hàng giáo sĩ của mình. Còn Thượng Hội đồng Giám mục (synod) là một quy chế được thể hiện sau CĐ. Vaticanô II. Đây là hội nghị do chính Giáo hoàng Rôma triệu tập các giám mục đại diện hay những người được ngài chỉ định để cùng tìm hiểu và giúp ngài về một số vấn đề liên quan đến hoạt động của Giáo Hội trong thế giới.
Thẩm quyền của công đồng chung
Công đồng chung là cơ quan lập pháp và giáo huấn tối cao của Giáo Hội. Đó chính là giám mục đoàn được quy tụ lại, vì Chúa Kitô đã ban quyền cho các tông đồ và những người kế vị các ngài để dạy dỗ và điều khiển Giáo Hội.
Những nghị quyết của công đồng chung có một giá trị tối cao đối với toàn thể Giáo Hội. Theo một số điều kiện đã được ấn định trong Giáo Hội, chúng có tính bất khả ngộ, nghĩa là không thể sai lầm. Nghị quyết chia thành 2 loại. Nghị quyết về quy luật ấn định những luật lệ, tập quán, nghi lễ…, nghị quyết về giáo lý bàn về những điểm giáo lý gây tranh cãi, làm sáng tỏ những điểm giáo lý còn nghi ngờ, xác định những chân lý mạc khải bị lạc giáo chối từ hoặc lên án những điểm sai lạc bằng các phán quyết “tuyệt thông”.
Các công đồng chung trong lịch sử
Các công đồng chung đóng một vai trò đặc biệt trong lịch sử Giáo Hội vì đã làm chứng và xác định những chân lý mạc khải, ấn định những hình thức thờ phượng và kỷ luật, tạo nên những cuộc biến chuyển và canh tân đời sống Kitô giáo. Nhìn chung, các công đồng biểu lộ những nỗ lực của Giáo Hội muốn luôn luôn chuyển biến chính mình để vừa bảo vệ khỏi những khủng hoảng của thời đại, vừa thanh tẩy mình khỏi những khiếm khuyết, vừa phát triển mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Trong dòng lịch sử suốt 20 thế kỷ qua, có tất cả 21 công đồng chung: 8 công đồng chung đầu tiên nhóm họp ở phương Đông, 13 công đồng sau ở phương Tây. Hầu hết, các giáo hội ly khai Đông Phương chỉ công nhận 7 công đồng chung đầu tiên. Các công đồng này, có thể nói, đã xác định phần lớn giáo lý cơ bản của Giáo Hội. Các hoàng đế phương Đông đã có công tích cực trong việc triệu tập và giúp đỡ công đồng trong thời gian nhóm họp, dù giá trị của công đồng hệ tại ở việc chuẩn nhận của vị giáo hoàng ở Rôma.
II. DANH SÁCH 21 CÔNG ĐỒNG CHUNG
Chúng tôi đã trình bày một số điểm cơ bản của từng công đồng trong phần Niên biểu Lịch sử Giáo Hội. Sau đây chỉ là bản liệt kê danh sách, ngày tháng và một số chi tiết khác của các công đồng chung:
1. Nicaea I, năm 325. Thành phần tham dự gồm khoảng 300 giám mục Đông Phương, 4 giám mục Tây Phương, 2 linh mục Rôma làm đặc sứ của thánh Giáo hoàng Sylvester I. Hoàng đế Constantinus I triệu tập. Công đồng họp từ tháng 6, kết thúc vào cuối tháng 8. Công đồng định tín Con Thiên Chúa đồng bản tính với Chúa Cha.
2. Constantinople I, năm 381. Hoàng đế Theodosius I triệu tập dưới triều thánh Giáo hoàng Damasus I. Có 186 giám mục Đông Phương dự. Khoá họp từ tháng 5 đến tháng 7. Công đồng lên án các lạc thuyết Arius và Macedonius, xác nhận và triển khai kinh Tin Kính Nicaea.
3. Ephesus, năm 431. Hoàng đế Theodosius II triệu tập, dưới triều thánh Giáo hoàng Celestinus I. Có khoảng 150-200 giám mục Đông Phương, 1 giám mục Tây Phương, 3 đặc sứ tham dự với 5 khoá họp từ 22/6-17/7. Công đồng lên án 2 lạc thuyết Nestorius và Pelagius, công bố Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và xác định sự ngôi hiệp nơi Đức Kitô.
4. Chalcedon, năm 451. Hoàng đế Marcianus triệu tập. Khoảng 600 giám mục Đông Phương, 2 giám mục Phi Châu, 3 đặc sứ của thánh Giáo hoàng Leo I tham dự 17 khoá họp từ 8/10-1/11. Công đồng lên án thủ lãnh lạc giáo Eutyches, tuyên bố Đức Kitô có một ngôi vị với hai bản tính riêng biệt.
5. Constantinople II, năm 553. Hoàng đế Justinianus I triệu tập dưới triều Giáo hoàng Vigilius. Khoảng 150 giám mục Đông Phương, 8 giám mục Phi Châu tham dự 8 khoá họp từ 5/5-2/6. Công đồng lên án 3 chương trích từ tác phẩm của các giáo phụ bị cho là theo thuyết Nestorius: T. de Mopsuestus, Theodoretus và Ibas.
6. Constantinople III, năm 680-681. Hoàng đế Constantinus IV triệu tập dưới triều các thánh giáo hoàng Agatho và Leo II. Có 165 giám mục Đông Phương, 6 giám mục Tây Phương và 3 sứ thần tham dự. Công đồng họp 16 khoá từ 7/11/680 đến 6/9/681. Công đồng lên án thuyết Nhất Ý và dạy rằng Đức Kitô có hai ý muốn: ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa.
7. Nicaea II, năm 787. Nữ hoàng Irene triệu tập dưới triều Giáo hoàng Adrianus I. Có khoảng 300 giám mục Đông Phương, 2 sứ thần tham dự 8 khoá họp từ 24/9-23/10. Công đồng lên án phái Phá Huỷ Ảnh Thánh, xác định có thể tôn kính ảnh thánh mà không bị coi là thờ ngẫu tượng.
8. Constantinople IV: theo Công giáo, Công đồng nhóm họp năm 870, do hoàng đế Basilius I triệu tập, dưới triều Giáo hoàng Adrianus II. Có khoảng 120 giám mục Đông Phương và 3 đặc sứ tham dự 6 khoá họp từ 5/10/869 đến 8/2/870, Công đồng lên án phái Phá Huỷ Ảnh Thánh và truất quyền thượng phụ giáo chủ Photius. Nhưng Giáo hội ly khai Đông Phương chỉ công nhận Công đồng năm 880 đồng thời huỷ bỏ hết quyết định của Công đồng năm 870.
9. Lateran I, năm 1123. Giáo hoàng Callixtus II triệu tập. Khoảng 300 giám mục và 700 đại biểu khác tham dự các khoá họp từ 8/3-6/4. Công đồng phê chuẩn thoả ước Worms và một số điều canh tân Giáo Hội.
10. Lateran II, năm 1139. Giáo hoàng Innocens II triệu tập. Có khoảng 1.000 tham dự viên họp trong tháng 4, để lên án việc ly giáo của Anacletus.
11. Lateran III, năm 1179. Giáo hoàng Alexander III triệu tập. Khoảng 300 giám mục và 400 giáo sĩ tham dự 3 khoá họp từ ngày 5-19/3 để lên án bè rối Albigenses. Công đồng quy định cách chọn giáo hoàng.
12. Lateran IV, năm 1215. Giáo hoàng Innocens III triệu tập. 412 giám mục và 388 giáo sĩ tham dự các khoá họp từ 11-30/11. Công đồng quy định việc xưng tội mỗi năm và rước lễ mùa Phục Sinh. Lần đầu tiên, Công đồng nói đến từ “chuyển bản thể” trong bí tích Thánh Thể.
13. Lyon I, năm 1245. Giáo hoàng Innocens IV triệu tập. Khoảng 150 giám mục và nhiều giáo sĩ tham dự 3 khoá họp từ 28/6-7/7 để lên án hoàng đế Frederich II.
14. Lyon II, năm 1247. Giáo hoàng Gregorius X triệu tập. Khoảng 500 giám mục và 570 giáo sĩ (có thánh Thomas và Bonaventura) tham dự 6 khoá họp từ 7/5-17/7. Hoàng đế Đông Phương M. Paleologus cũng tham dự. Công đồng bàn về sự hợp nhất giữa Giáo hội Đông Phương và Tây Phương.
15. Vienne, năm 1311-1312. Giáo hoàng Clemens V triệu tập. Khoảng 132 giám mục với nhiều giáo sĩ tham dự 3 khoá họp từ 16/10/1311 đến 6/5/1312. Công đồng giải tán dòng Hiệp Sĩ Đền Thờ, lên án quan niệm sai lạc của tu sĩ Beguard và Beguin.
16. Constance (Konstanz), năm 1414-1418. Hoàng đế Segismundo triệu tập dưới triều Giáo hoàng Gregorius XII và Martinus V. Khoảng 200 giám mục và nhiều giáo sĩ, chuyên viên tham dự 45 khoá họp từ 5/11/1414 đến 22/4/1418. Công đồng bãi nhiệm ba giáo hoàng đang tranh chấp nhau, chấm dứt tình trạng ly khai ở Tây Phương, lên án J. Wycliff và Jan Hus và chọn Giáo hoàng Martinus V.
17. Florence (Firenze), năm 1438-1455. Giáo hoàng Eugenius IV triệu tập. Lần đầu họp ở Basel, sau dời về Ferrara rồi về Florence. Khoảng 150 giám mục Tây Phương, 30 giám mục Đông Phương tham dự, Công đồng đã đưa ra nhiều phương thức hợp nhất Giáo Hội.
18. Lateran V, năm 1512-1517. Giáo hoàng Julius II và Leo X triệu tập. Có 115 giám mục Tây Phương tham dự 12 khoá họp từ 3/5/1512 đến 6/3/1517. Công đồng xác định quyền bính giáo hoàng và quyền bính công đồng, lên án những người theo thuyết Tân Aristote.
19. Trento (Tridentino), năm 1545-1563. Giáo hoàng Paulus III, Julius III, Pius IV triệu tập. Lúc đầu có 70 giám mục, lúc cuối có 252 giám mục và nhiều giáo sĩ khác tham dự trong 25 khoá họp từ 13/12/1545 đến 4/12/1563. Công đồng xác định một số điểm về đức tin và giáo lý liên quan đến phong trào cải cách, canh tân Giáo Hội về nhiều điểm thực tế.
20. Vaticanô (Vatican) I, năm 1869-1870. Giáo hoàng Pius IX triệu tập. Có 747 giám mục tham dự và nhiều giáo sĩ khác trong 4 khoá từ 8/12/1869 đến 1/7/1870. Công đồng lên án thuyết duy lý và tuyên bố tính cách bất khả ngộ của giáo hoàng.
21. Vaticanô (Vatican) II, năm 1962-1965. Giáo hoàng Joannes (Gioan) XXIII và Paulus (Phaolô) VI triệu tập. Có tất cả 2.860 nghị phụ tham dự. Số nghị phụ ở mỗi khoá thay đổi từ 2.150-2.500. Có 10 khoá trong 4 kỳ họp. Công đồng đã soạn thảo và công bố 4 hiến chế, 9 sắc lệnh và 3 tuyên ngôn nhằm đổi mới toàn diện đời sống GHCG và hướng tới sự hợp nhất Kitô giáo. Sau đây, chúng ta sẽ nói thêm về Công đồng này.
III. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICANÔ II
Vaticanô II vẫn còn cần thiết
CĐ. Vaticanô II đã kết thúc cách đây 50 năm. Gần đây, một số người có khuynh hướng tự do trong Giáo Hội đang nói đến một công đồng chung mới. Công đồng này sẽ thực hiện việc đổi mới triệt để mà CĐ. Vaticanô II đã khởi xướng, để đạt được sự hợp nhất trọn vẹn mà Vaticanô II mới thu được một vài kết quả bước đầu và sẽ giải quyết một số vấn đề mới mẻ của Giáo Hội trong thế giới hôm nay. Tuy nhiên, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ngỏ lời trong một hội nghị ở Vatican vào ngày 27/2/2000 rằng: “CĐ. Vaticanô II đã cho chúng ta nhiều phần thưởng quý hoá từ 35 năm qua và còn tiếp tục dẫn đưa chúng ta trong nhiều năm kế tiếp. Công việc của Giáo Hội bây giờ là học hỏi những điều đã đề ra trong các văn bản của Công đồng và đem ra thực hành cho có hiệu quả …”.
Giáo hội Việt Nam, trong thời gian trước đây, từ năm 1965 đến 1975, do hoàn cảnh chiến tranh của đất nước, chưa có dịp học hỏi kỹ lưỡng các văn kiện của Công đồng, trừ một vài giáo phận ở miền Nam Việt Nam. Chỉ trong các thành phố và đô thị lớn, giáo dân mới có dịp học hỏi về Công đồng này ít nhiều, còn lại hầu như chẳng mấy khi nghe nói đến Công đồng, nhất là ở miền Bắc Việt Nam. Sau công cuộc thống nhất đất nước năm 1975, dân tộc ta lại sống trong sự khó khăn tột cùng về kinh tế và sự hẹp hòi về tư tưởng, vì “cái khó bó cái khôn”, các bài học đổi mới, hợp nhất của Công đồng hầu như ít được nhắc đến như những định hướng cơ bản cho Giáo hội Việt Nam.
Vì thế, có lẽ chúng ta cần cố gắng nhiều hơn để tìm hiểu cẩn thận về Công đồng qua những văn kiện cơ bản. Trong phạm vi cuốn Niên Giám này, chúng tôi chỉ có thể gợi ra vài nét đặc biệt và tóm tắt ít dòng về các kỳ họp của CĐ. Vaticanô II mà thôi.
Những lý do triệu tập Công đồng
CĐ. Vaticanô II là sáng kiến độc đáo của Đức Gioan XXIII do một ơn linh hứng đặc biệt, khi ngài tham dự lễ bế mạc tuần hợp nhất Kitô hữu vào ngày 25/1/1959 tại đền Thánh Phaolô Ngoại Thành. Với tên gọi Vaticanô II, Công đồng thật sự muốn tiếp tục những vấn đề còn đang bàn luận dang dở của Công đồng Vaticanô I. Công đồng này phải kết thúc đột ngột vào năm 1870 khi giáo phận Rôma bị sáp nhập vào vương quốc Ý.
Sáng kiến của Đức Gioan XXIII không nằm trong chiều hướng nghiên cứu các vấn đề hay lên án các giáo thuyết sai lạc như hầu hết các công đồng trong quá khứ, nhưng từ những nhu cầu cấp bách thực tế của Giáo Hội trong thế giới đương thời, vì Giáo Hội lúc đó đang phải đối phó với những thách đố cực kỳ khó khăn.
Thật vậy, thế giới đổi thay hết sức nhanh chóng kể từ Vaticanô I. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cuốn hút loài người vào một viễn ảnh vật chất vô cùng tươi sáng nhưng cũng đầy những âu lo, khắc khoải với thảm hoạ chiến tranh hạt nhân, với cuộc đối đầu giữa thế giới tư bản và cộng sản, với nền văn minh hưởng thụ. Tôn giáo dường như không giải đáp được những vấn nạn của con người.
Trong nội bộ Giáo Hội, những xung đột, chia rẽ không ngừng xảy ra giữa các miền Kitô giáo lâu đời. Công cuộc truyền giáo không còn đạt những kết quả lớn lao vì chính Kitô hữu dường như an thân và thoả mãn với đời sống đạo thụ động của mình. Do đó, cần một công đồng để thực hiện cuộc đổi mới sâu xa toàn thể đời sống Giáo Hội, đem lại giá trị thật sự cho tư tưởng con người cũng như cho đời sống nhân loại, trong tinh thần tìm về nguồn và vâng theo Chúa Thánh Thần (x. Diễn văn khai mạc giai đoạn chuẩn bị Công đồng, AAS 59 (1960) 1004-1014).
Công cuộc chuẩn bị
Công đồng được chuẩn bị trong hơn 3 năm, từ 7/1959 đến 11/1962. Tất cả các nghị phụ tương lai được hỏi ý kiến, các đại học Công giáo được thăm dò về các vấn đề có thể đưa ra Công đồng với 2.109 bản trả lời, gồm 8.972 đề nghị. 11 uỷ ban dự bị và 2 văn phòng làm việc không ngừng suốt 1 năm tròn và góp về uỷ ban trung ương, do chính Đức Giáo hoàng làm chủ tịch, 70 lược đồ lớn, in thành 19 cuốn sách, gồm 2.060 trang.
Kỳ họp đầu tiên (từ 11/10 đến 8/12/1962: khoá I).
Có tất cả 2.904 nghị phụ được mời tham dự. Trừ các vị già yếu bệnh tật và các vị ở một vài nước theo chế độ Cộng sản không được phép đi, có tất cả 2.449 vị có mặt, đại diện cho 134 nước trên thế giới.
Các nghị phụ bầu ra 10 uỷ ban Công đồng do các vị hồng y trong giai đoạn chuẩn bị làm chủ tịch. Cộng thêm Hội đồng Chủ tịch Điều hành và 4 văn phòng. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Latinh. Ai muốn phát biểu cần ghi danh trước ở Hội đồng Chủ tịch và nộp một bản viết. Thời gian phát biểu không quá 10 phút. Các nghị phụ phải có mặt trong các phiên họp chung hay khoáng đại. Các biểu quyết bằng phiếu được kiểm soát bằng máy móc điện tử. Phải có 2/3 số phiếu thì các quyết định của Công đồng mới có giá trị.
Trong kỳ họp này, các nghị phụ làm việc theo 7 lược đồ đề nghị. Ngày 4/11 lược đồ đầu tiên về Phụng vụ được chấp thuận với 2.162 phiếu thuận, 46 phiếu chống. Các lược đồ khác như: về nguồn mạc khải, về phương tiện truyền thông xã hội, về sự hợp nhất các Kitô hữu, về Giáo Hội được bàn luận. Cuối kỳ họp, số lược đồ tăng tới 73 và Đức Thánh Cha quyết định rút lại còn 20 lược đồ tập trung. Các chuyên viên, nghị phụ có 9 tháng để đúc kết các lược đồ và soạn thảo công việc cho kỳ họp tới. Cũng trong thời gian này, Đức Gioan XXIII qua đời. Đức Hồng y Montini lên thay, lấy danh hiệu là Phaolô VI.
Kỳ họp thứ 2 (từ 29/9 đến 4/12/1963: khoá II và III)
Đức Giáo hoàng Phaolô VI đổi mới và cụ thể hoá chương trình làm việc của Công đồng. Trong kỳ họp này, các nghị phụ tập trung cho lược đồ về Giáo Hội, giám mục, giáo dân, sự hợp nhất, nhiều điểm vẫn chưa giải quyết. Ngày 4/12/1963, Đức Phaolô VI công bố “Hiến chế về Phụng vụ thánh” Sacrosanctum Concilium (Thánh Công đồng chung) và sắc lệnh về các Phương tiện truyền thông xã hội Inter mirifica (Giữa những sự kỳ diệu).
Trong thời gian nghỉ họp, các nghị phụ bắt đầu thực hiện chương trình “Dopfner” nghĩa là bố cục lại tất cả các lược đồ theo một trục chính là Giáo Hội. Các nhà thần học trong các uỷ ban giúp đỡ rất nhiều cho Công đồng.
Kỳ họp thứ ba (từ 14/9 đến 21/11/1964: khoá IV và V)
Nhờ cải tiến cách phát biểu trong các phiên họp, công việc tiến hành nhanh hơn. Các nghị phụ bàn luận tiếp lược đồ Giáo Hội về tính cách cánh chung và vai trò của Đức Trinh Nữ Maria, về nhiệm vụ mục vụ của giám mục, về tự do tôn giáo, về mạc khải, về tông đồ giáo dân, về linh mục, về các GHCG Đông Phương, về giáo dục Kitô giáo, nhất là về lược đồ 13, lược đồ sau này trở thành Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay.
Trong buổi lễ bế mạc ngày 21/11/1964, Đức Giáo hoàng đã công bố 3 văn kiện: Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium (Ánh sáng Muôn dân), Sắc lệnh về các GHCG Đông Phương Orientalium Ecclesiarum (các Giáo hội Đông Phương) và Sắc lệnh về Hợp nhất Unitatis redintegratio (Tái lập sự hợp nhất). Ngài chính thức tuyên bố Đức Maria là Mẹ Giáo Hội và loan báo kỳ họp tới sẽ kết thúc Công đồng.
Kỳ họp thứ tư (từ 14/9 đến 8/12/1965: khoá VI-X)
Trong bài diễn văn khai mạc kỳ họp, Đức Phaolô VI loan báo quyết định thành lập Thượng Hội đồng Giám mục. Đây là một bước tiến đáng kể trong việc canh tân Giáo Hội. Các nghị phụ bàn nhiều đến lược đồ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay và các lược đồ đang còn dang dở cần được tu chỉnh. Ngày 4 đến 5/10/1965, Đức Thánh Cha công du và đọc diễn văn tại Hội đồng Liên Hiệp Quốc.
Ngày 28/10/1965, Đức Phaolô VI chính thức công bố 5 văn kiện đã được các nghị phụ chấp thuận:
– Sắc lệnh về nhiệm vụ Giám mục Dominus Christus (Chúa Kitô).
– Sắc lệnh về việc Canh tân, Thích nghi Đời sống Dòng tu Perfectae Caritatis (Đức ái hoàn hảo).
– Sắc lệnh về Đào tạo Linh mục Optatam totius
– Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo Gravissimum educationis (Vai trò rất quan trọng của giáo dục).
– Tuyên ngôn về Liên lạc của Giáo Hội với các Tôn giáo ngoài Kitô giáo, Nostra Aetate (Thời đại chúng ta)
Ngày 8/11/1965, Đức Phaolô VI công bố hai văn kiện mới:
– Hiến chế Tín lý về Mạc khải của Thiên Chúa Dei Verbum (Lời Thiên Chúa).
– Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân Apostolicam Actuositatem.
Ngày 7/12/1965, trong khoá họp IX, Đức Phaolô VI công bố 4 văn kiện cuối cùng là những văn kiện đã phải nhiều lần tranh cãi, sửa đổi, bổ sung:
– Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo, Dignitatis Humanae (Phẩm giá Con người).
– Sắc lệnh về Hoạt động Truyền giáo của Giáo Hội Ad Gentes (Đến với Muôn dân).
– Sắc lệnh về Chức vụ và Đời sống Linh mục Presbyterorum Ordinis (Chức vụ Linh mục).
– Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong Thế giới Ngày nay, Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy vọng).
Trong khoá họp này, có một số sự kiện mang ý nghĩa hợp nhất đáng ghi nhớ. Ngày 4/12, Đức Thánh Cha họp với các quan sát viên ngoài Công giáo tại đền thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành và cùng dự chung một nghi lễ cầu cho sự hợp nhất. Ngày 7/12/1965, Đức Phaolô VI ở Rôma và Đức Thượng Phụ Athenagoras ở Istambul đã cùng một lúc xoá bỏ án tuyệt thông lẫn nhau, chấm dứt cuộc ly khai từ năm 1054. Đây là một sự kiện nói lên thành quả tốt đẹp và giá trị nhất của Công đồng. Bộ Thánh vụ được đổi tên thành Bộ Giáo lý Đức tin.
Khoá X ngày 8/12/1965, Công đồng đã tổ chức nghi thức bế mạc long trọng tại quảng trường thánh Phêrô, Công đồng gửi sứ điệp bế mạc đến nhiều thành phần nhân loại trên thế giới.
Bản dịch văn kiện Công đồng
Ngay trong thời gian Công đồng nhóm họp, nhiều tài liệu và văn kiện của Công đồng đã được phiên dịch sang hầu hết ngôn ngữ các nước trên thế giới. Về bản dịch Việt ngữ các văn kiện CĐ. Vaticanô II, chúng ta có bản dịch của Senatus Sài Gòn in năm 1966 và bản dịch của Phân khoa Thần học Giáo hoàng Học viện Thánh Pius X, Đà Lạt, in năm 1972, tái bản năm 1974 với nhiều hiệu đính.
Từ tháng 5/1975, Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn đã cùng một nhóm sinh viên của Giáo hoàng Học viện sửa chữa để hoàn chỉnh bản dịch, bổ sung thêm phần các Sứ điệp Công đồng, Bản Mục lục Nguồn Trích dẫn và Mục lục Phân tích Chủ đề gồm 500 trang. Bản văn được sắp chữ trên hệ thống Monotype Filmsetter của Nguyễn Bá Tòng Ấn loát Công ty. Do điều kiện khó khăn trong nước, năm 1980, bản dịch hoàn chỉnh này đã được xuất bản tại Hoa Kỳ. Từ năm 1981-2012, bản dịch này được các linh mục, chủng sinh, tu sĩ ở Việt Nam sử dụng qua bản photocopy. Năm 2012, Uỷ ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã nhờ Lm. Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn xem lại bản dịch, sửa chữa vài chỗ và xuất bản như bản dịch chính thức của Hội Đồng.
IV. THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC (Synod of Bishops)
Thượng Hội đồng Giám mục (THĐGM) là một thể chế định kỳ được Đức Giáo hoàng Phaolô VI có sáng kiến thiết lập qua Tự sắc Apostolica Sollicitudo, ngày 15/9/1965. Thể chế này đáp ứng nguyện vọng của các nghị phụ CĐ. Vaticanô II muốn duy trì tinh thần tích cực do kinh nghiệm Công đồng đem lại. Giáo luật cũng đã dự liệu những quy định về THĐGM trong các điều khoản 342-348.
Từ ngữ Synod (thượng hội đồng) phát xuất bởi từ ngữ Hy Lạp ‘Syn’ (cùng nhau), ‘hodos’ (con đường), có nghĩa là cùng nhau đi trên đường, cùng nhau tiến tới. Do đó, THĐGM là hội nghị các giám mục được tuyển chọn từ nhiều miền khác nhau trên thế giới, theo định kỳ họp mặt, để cổ vũ sự liên kết chặt chẽ giữa giáo hoàng Rôma và các giám mục, nhằm góp ý giúp giáo hoàng Rôma trong việc điều hành Giáo Hội hoàn vũ, cũng như trong việc bảo toàn, phát triển đức tin và luân lý hầu duy trì và củng cố kỷ luật trong Giáo Hội.
THĐGM có thể nhóm họp thành Hội nghị Chung Thường lệ hay ngoại lệ liên quan đến lợi ích của Giáo Hội toàn cầu hay Hội nghị Đặc biệt bàn về những công việc liên quan đến một hay nhiều miền nhất định.
Sau đây là những THĐGM đã được tổ chức từ 1967-2015 theo thứ tự thời gian:
1. Hội nghị Chung Thường lệ I từ 29/9 đến 29/10/1967 với chủ đề: “Sự bảo tồn và tăng trưởng đức tin Công giáo, sự toàn vẹn, sức mạnh và phát triển, sự liên kết có tính lịch sử và đạo lý của đức tin này”. Số người tham dự: 197. Kết quả là thiết lập một Uỷ ban Thần học Quốc tế để giúp đỡ Bộ Giáo lý Đức tin hoạt động từ năm 1963.
2. Hội Nghị Chung Ngoại Lệ I từ 11/9 đến 28/10/1969 với chủ đề: “Sự hợp tác giữa Toà Thánh và các Hội đồng Giám mục”. Số người tham dự: 146.
3. Hội nghị Chung Thường lệ II từ 30/9 đến 06/11/1971 với chủ đề: “Chức Linh mục Thừa tác và Công bình trong thế giới”. Số người tham dự: 210.
4. Hội nghị Chung Thường lệ III từ 27/9 đến 26/10/1974 với chủ đề: “Loan báo Tin Mừng trong thế giới hiện đại”. Số người tham dự: 209. Ngày 18/12/1975, Đức Phaolô VI công bố Tông huấn Evangelii nuntiandi, (Loan báo Tin Mừng).
5. Hội nghị Chung Thường lệ IV từ 30/9 đến 29/10/1977 với chủ đề: “Giáo lý trong thời đại chúng ta”. Số người tham dự: 204. (Ngày 16/10/1979, Đức Gioan Phaolô II công bố Tông huấn Catechesi Tradendae, (Truyền giảng Giáo lý).
6. Hội nghị Đặc biệt dành cho Hà Lan từ 14-31/1/1980 với chủ đề: “Tình trạng mục vụ của Hà Lan”. Số người tham dự: 19.
7. Hội nghị Chung Thường lệ V từ 26/9 đến 25/10/1980 với chủ đề: “Gia đình Kitô giáo”. Số người tham dự: 216. Ngày 25/10/1980, Đức Gioan Phaolô II công bố Tông huấn Familiaris Consortio, (Cơ cấu Gia đình).
8. Hội nghị Chung Thường lệ VI từ 29/9 đến 29/10/1983 với chủ đề: “Thống hối và Hoà giải trong sứ vụ linh mục”. Số người tham dự: 221. Ngày 02/12/1984, Đức Gioan Phaolô II công bố Tông huấn Reconciliatio et Paenitentia, (Hoà giải và Thống hối).
9. Hội Nghị Chung Ngoại Lệ Thứ II từ 24/11 đến 8/12/1983 với chủ đề: “Kỷ niệm 20 năm bế mạc Công đồng Chung Vaticanô II”. Số người tham dự 165.
10. Hội nghị Chung Thường lệ VII từ 1/10 đến 8/12/1987 với chủ đề: “Ơn gọi và sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới”. Số người tham dự: 232. Ngày 30/12/1984, Đức Gioan Phaolô II công bố Tông huấn Christifideles laici, (Kitô hữu Giáo dân).
11. Hội nghị Chung Thường lệ VIII từ 30/9 đến 28/10/1990 với chủ đề: “Đào tạo các linh mục trong hoàn cảnh hiện tại”. Số người tham dự: 238. Ngày 25/3/1992, Đức Gioan Phaolô II công bố Tông huấn Pastores dabo vobis, (Những Mục tử như lòng mong ước).
12. Hội nghị Đặc biệt dành cho Âu Châu từ 28/11 đến 14/12/1991 với chủ đề: “Để chúng ta có thể làm chứng nhân cho Chúa Kitô, Đấng giải phóng chúng ta”. Số người tham dự: 137.
13. Hội nghị Đặc biệt dành cho châu Phi từ 10/4 đến 8/5/1994 với chủ đề: “Giáo Hội ở châu Phi và sứ vụ loan báo Tin Mừng tiến đến năm 2000: Các con sẽ là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Số người tham dự: 242. Ngày 14/9/1995, Đức Gioan Phaolô II công bố Tông huấn Ecclesia in Africa, (Giáo hội tại Phi Châu).
14. Hội nghị Chung Thường lệ IX từ 2-29/10/1994 với chủ đề: “Đời sống Thánh hiến và vai trò của nó trong Giáo Hội và trong thế giới”. Số người tham dự: 245. Ngày 25/3/1996, Đức Gioan Phaolô II công bố Tông huấn Vita Consecrata, (Đời sống Thánh hiến).
15. Hội nghị Đặc biệt dành cho Liban từ 26/11 đến 14/12/1995 với chủ đề: “Chúa Kitô là niềm hy vọng của chúng ta: được Chúa Thánh Thần canh tân, chúng ta làm chứng cho tình yêu của Người trong sự liên đới”. Số người tham dự: 70. Ngày 10/5/1997, Đức Gioan Phaolô II công bố Tông huấn Một niềm hy vọng mới cho Liban.
16. Hội nghị Đặc biệt dành cho châu Mỹ từ 16/11 đến 12/12/1995 với chủ đề: “Gặp gỡ Đức Kitô hằng sống: Con đường dẫn tới hoán cải, hiệp thông và liên đới tại châu Mỹ”. Số người tham dự: 233. Ngày 22/1/1999, Đức Gioan Phaolô II công bố Tông huấn Ecclesia in America, (Giáo Hội tại Mỹ Châu).
17. Hội nghị Đặc biệt dành cho châu Á từ 19/4 đến 14/5/1998 với chủ đề: “Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ, sứ vụ tình yêu và phục vụ của Người ở Á Châu: Ta đến để chúng được sống và được sống dồi dào” (Ga 10,10). Số người tham dự: 253. Ngày 6/11/1999, Đức Gioan Phaolô II công bố Tông huấn Ecclesia in Asia, (Giáo hội tại Á Châu).
18. Hội nghị Đặc biệt dành cho châu Đại Dương từ 12/11 đến 12/12/1998 với chủ đề “Đức Giêsu Kitô và các dân tộc ở châu Đại Dương: bước đi con đường của Người, loan báo chân lý Người và sống sự sống của Người”. Số người tham dự: 117.
19. Hội nghị Đặc biệt II dành cho Âu Châu từ 1-23/10/1999 với chủ đề: “Chúa Giêsu Kitô, sống động trong Giáo Hội của Người, nguồn hy vọng cho châu Âu”. Số người tham dự: 165.
20. Hội nghị Chung Thường lệ X vào năm 2001 với chủ đề: “Giám mục: Thừa tác viên của Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, phục vụ niềm hy vọng thế giới”.
21. Hội nghị Chung Thường lệ XI được tổ chức tại Rôma từ ngày 2–23/10/2005, với chủ đề: “Thánh Thể là nguồn suối và tột đỉnh của đời sống và sứ mạng của Giáo Hội”. Số người tham dự: 256. Ngày 20/2/2007 Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã trình bày những suy tư thảo luận của Thượng Hội Đồng và công bố Tông huấn “Sacramentum Caritatis” (Bí tích Bác ái).
22. Hội nghị Chung Thường lệ XII được tổ chức tại Rôma từ ngày 5–26/10/2008 với chủ đề: “Ngôi Lời Thiên Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội”. Số người tham dự: 336 gồm 52 hồng y, 14 giám mục Đông phương, 45 tổng giám mục, 130 giám mục, 85 linh mục và chuyên viên.Ngày 30/9/2010 Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã tổng kết hội nghị và công bố Tông huấn Verbum Domini (Ngôi Lời Thiên Chúa).
23. Hội nghị Đặc biệt lần II dành cho châu Phi từ ngày 5–25/10/2009 với chủ đề “Hội Thánh tại châu Phi phục vụ sự hoà giải, công lý và hoà bình”. Số người tham dự: 239, gồm 33 hồng y, 3 thượng phụ, 75 tổng giám mục, 128 giám mục, 8 linh mục và 55 chuyên viên. Ngày 19/11/2011 Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã tổng kết hội nghị và công bố Tông huấn Africae Munus (Sứ mạng của châu Phi).
24. Hội nghị Đặc biệt dành cho vùng Trung Đông từ ngày 10–24/10/2010 với chủ đề: “GHCG trong vùng Trung Đông: hiệp thông và bằng chứng”. Số người tham dự: 185. Ngày 9/9/2012. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã tổng kết hội nghị và công bố Tông huấn Ecclesia in Medio Oriente (Giáo Hội ở Trung Đông).
25. Hội nghị Chung Thường lệ XIII, tổ chức tại Rôma, từ ngày 7–28/10/2012, với chủ đề: “Tân Phúc Âm hoá để thông truyền đức tin Kitô”. Số người tham dự là 400, gồm 262 nghị phụ, 49 dự thính viên và 45 chuyên viên, 15 đại biểu đại diện cho 15 Giáo Hội và cộng đồng Giáo Hội chưa hiệp thông trọn vẹn với GHCG và 30 thông dịch viên. Ngày 24/11/2013 Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tổng kết hội nghị và công bố Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui Phúc Âm).
26. Hội nghị Đặc biệt, tổ chức tại Rôma, từ ngày 5–19/10/2014, với chủ đề: “Những thách đố về việc mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”. Số người tham dự gồm 191 nghị phụ trong đó có 61 hồng y, 7 thượng phụ và thủ lĩnh của các GHCG Đông Phương, 115 tổng giám mục và giám mục, 7 linh mục. Ngoài ra còn có 38 linh mục chuyên gia và cộng tác viên.
Các cuộc thảo luận trao đổi ý kiến diễn ra trong bầu không khí rất tự do, thẳng thắn về những vấn đề hiện sinh liên quan đến hôn nhân và gia đình, không hề có việc sắp đặt hay vận động. Bản “Relatio Synodi” (Bản Tường trình Đúc kết Thượng Hội đồng) gồm 62 số được công bố sau khi bỏ phiếu từng số. Mỗi số phải đạt được đa số 2 phần 3 của 183 nghị phụ có mặt ngày 18/10/2014.
Có 3 số: 52 (khả năng cho phép người ly dị tái hôn lãnh nhận các bí tích: 104 phiếu thuận so với 74 chống); 53 (về 2 hình thức rước lễ thiêng liêng – thật sự cho người ly dị tái hôn: 112 phiếu thuận, 64 phiếu chống) và 55 (về đồng tính luyến ái: 118 phiếu thuận, 62 phiếu chống). Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn quyết định cho công bố toàn bản văn với các số phiếu thuận, phiếu chống của từng số để cho toàn Giáo Hội thấy rõ toàn cảnh cuộc thảo luận ở Thượng Hội Đồng.
27. Hội nghị Chung thường lệ XIV, tổ chức tại Rôma, từ ngày 4 đến 25 tháng 10 năm 2015, với chủ đề “Ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong Giáo hội và trong thế giới ngày nay. Có 270 người tham dự Công nghị GM Thế giới lần này, chia làm 3 thành phần, gồm 42 nghị phụ tham dự do chức vụ, 183 vị được bầu lên, 45 vị do ĐTC bổ nhiệm. Các nghị phụ do chức vụ gồm 15 vị thủ lãnh các công nghị của các Giáo hội Công giáo Đông phương, 25 vị đứng đầu các cơ quan trung ương Toà Thánh, tiếp đến là vị Tổng Thư ký và Phó Tổng Thư ký của Thượng HĐGM. Ngoài ra có 14 đại biểu của các Giáo hội Kitô Anh em, như Chính thống, Tin Lành, Anh giáo. Xét về chức vụ của các nghị phụ có 74 hồng y, 6 thượng phụ, 1 TGM trưởng, 72 TGM, 102 GM, 2 cha sở và 13 cha dòng. Thêm vào đó có 24 chuyên gia và 51 dự thính viên. Có 18 đôi vợ chồng tham dự công nghị này. Tổng số những người có quyền lên tiếng trong Thượng HĐGM lần này là 318 người gồm các nghị phụ, các đại biểu các Giáo hội Kitô anh em và các dự thính viên.
ĐHY Baldisseri, Tổng Thư ký Thương HĐGM, cho biết Thượng HĐGM tiến hành theo 3 giai đoạn dựa theo 3 phần của Tài liệu làm việc. Việc phát biểu của các nghị phụ cũng diễn ra theo sự phân chia: mỗi nghị phụ được phát biểu tối đa 3 phút trong các phiên họp khoáng đại. Tổng cộng có 18 phiên họp khoáng đại, 13 phiên họp nhóm được phân chia theo các ngôn ngữ. Ngoài ra, mỗi ngày từ 6 đến 7 giờ chiều có phần phát biểu tự do về 3 đề tài cho 3 giai đoạn thảo luận trong Thượng HĐGM lần này là:
1. Lắng nghe những thách đố về gia đình (Tài liệu làm việc, số 6-36)
2. Phân định ơn gọi gia đình (Tài liệu làm việc, số 37-38)
3. Sứ mạng của gia đình ngày nay (Tài liệu làm việc, số 69-147)
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Nguồn tư liệu
+ Phân khoa Thần học Giáo hoàng Học viện Thánh Pius X, Thánh Công đồng Chung Vaticanô II, Đà Lạt, 1972, tr. 1-56.
+ Our Sunday Visitor’s, Catholic Almanac 2015, NXB Our Sunday Visitor’s, Huntington, Indiana 1999, tr. 244-245.
+ Tổng hợp các nguồn tin từ Uỷ ban Truyền thông Vatican.