14/11/2024

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh

VATICAN – Trong buổi tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh sáng ngày 12-1-2015, ĐTC Phanxicô đã trình bày lập trường của Toà Thánh về các vấn đề thời sự quốc tế. Buổi tiếp kiến diễn ra từ lúc 10 giờ 30, trước sự hiện diện của các đại diện 180 quốc gia và tổ chức quốc tế có quan hệ trên cấp đại sứ, cùng với đại diện của chính quyền Palestine, đến chúc mừng ngài nhân dịp đầu năm mới.

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh
 
VATICAN – Trong buổi tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh sáng ngày 12-1-2015, ĐTC Phanxicô đã trình bày lập trường của Toà Thánh về các vấn đề thời sự quốc tế.

Buổi tiếp kiến diễn ra từ lúc 10 giờ 30, trước sự hiện diện của các đại diện 180 quốc gia và tổ chức quốc tế có quan hệ trên cấp đại sứ, cùng với đại diện của chính quyền Palestine, đến chúc mừng ngài nhân dịp đầu năm mới.

Sau lời chào mở đầu của vị niên trưởng ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh, là Đại sứ Jean-Claude Michel của Tiểu vương quốc Monaco, ĐTC đã lên tiếng chào thăm tất cả các vị đại sứ và cám ơn vị niên trưởng ngoại giao đoàn và lần lượt đề cập đến những vấn đề và những vùng nóng bỏng trên thế giới cũng như khích lệ những sáng kiến hoà bình và phát triển.

Diễn văn của ĐTC

Ngài nói: “Hôm nay tôi muốn mạnh mẽ tái gióng lên một từ rất quí giá đối với chúng ta, đó là hoà bình! Từ này đến với chúng ta từ tiếng nói của các thiên thần, loan báo trong đêm Giáng Sinh (x. Lc 2,14), như hồng ân quý giá của Thiên Chúa và đồng thời tỏ cho chúng ta thấy đó là trách nhiệm bản thân và xã hội mà chúng ta cần phải ân cần và mau mắn thực hiện. Nhưng bên cạnh hoà bình, hang đá máng cỏ cũng kể lại cho chúng ta một thực tại bi thảm: đó là sự phủ nhận. Trong một số hình ảnh về Giáng Sinh, ở Tây phương cũng như Đông phương, tôi nghĩ đến bức ảnh rạng ngời vẽ trên gỗ của Andrej Rublev – Chúa Hài Đồng không nằm thoải mái trong nôi, nhưng được đặt trong một cái mộ. Hình ảnh ấy muốn liên kết hai lễ chính của Kitô giáo – Giáng Sinh và Phục Sinh, cho thấy bên cạnh sự đón tiếp vui mừng biến cố Chúa giáng sinh, có cả một thảm kịch trong đó Chúa Giêsu bị khinh rẻ và loại bỏ cho đến độ phải chết trên thập giá.”

Nguyên nhân nền văn hoá loại bỏ

ĐTC nhận định rằng các trình thuật về sự giáng sinh của Chúa Giêsu cũng nói về “con tim chai cứng của nhân loại” khiến họ không đón nhận Chúa Hài Đồng. Ngài cảnh giảc rằng “ngày nay cũng có một thái độ phủ nhận nơi chúng ta, làm cho ta không nhìn tha nhân như người anh em cần đón nhận, nhưng để họ ở bên ngoài chân trời cuộc sống chúng ta, biến họ thành một người cạnh tranh, một nhân vật thấp kém cần thống trị. Đó là một não trạng tạo nên nền văn hoá gạt bỏ không tha điều gì và cũng chẳng nể nang ai: từ các thụ tạo, cho tới con người và thậm chí cả Thiên Chúa nữa. Từ đó nảy sinh một nhân loại bị thương tổn và tiếp tục bị xâu xé vì những căng thẳng và xung đột đủ loại”.

ĐTC nhận xét rằng chúng ta có một âm hưởng đau buồn về sự kiện đó trong rất nhiều tin tức thời sự hằng ngày, mới đây nhất là cuộc thảm sát xảy ra ở Paris. Ngài đặc biệt nói đến một nhân vật tàn ác là vua Hêrôđê, khi thấy mình bị Hài Nhi Giêsu đe doạ, liền ra lệnh giết tất cả các trẻ em ở Bethlehem. Từ đó, ĐTC cảm động nhắc đến vụ thảm sát tàn bạo chưa từng có: hơn 100 trẻ em bị tàn sát cách đây hơn 1 tháng tại Pakistan.

Những hình thức nô lệ tân thời


Trong bài diễn văn trước ngoại giao đoàn, ĐTC cũng đề cập đến những thứ nô lệ tân thời, như đã nói tới trong sứ điệp nhân Ngày Thế giới Hoà bình 1-1 vừa qua, và ngài tái khẳng định rằng ngày nay, chúng ta thấy con người tự do trở thành nô lệ, khi thì nô lệ thời trang, khi thì nô lệ quyền lực, tiền tài, thậm chí nô lệ những hình thức sai trái về tôn giáo. Hiển nhiên đó là những thứ nô lệ tân thời, nảy sinh từ một con tim hư hỏng, không có khả năng nhìn thấy và làm điều thiện, không theo đuổi hoà bình. ĐTC cảnh giác trước những hậu quả của não trạng ấy và thứ văn hoá nô lệ hoá, đó là sự tiếp tục lan tràn các cuộc xung đột như một thứ thế chiến thực sự, đang diễn ra từng mảnh.

Xung đột tại Ucraina

Cuộc chiến tranh đầu tiên được ĐTC nhắc đến là tại Ucraina và ngài nhận xét rằng đất nước này đã trở thành một diễn trường thê thảm cho các cuộc xung đột. Ngài cầu mong rằng nhờ đối thoại, người ta củng cố các nỗ lực đang tiến hành để chấm dứt các hành vi thù nghịch, và các phe liên hệ bắt đầu con đường chân thành, tín nhiệm nhau trong tinh thần tôn trọng công pháp quốc tế.

Trung Đông, Irak và Syria

Một phần quan trọng trong diễn văn của ĐTC được dành cho Trung Đông, quê hương của Chúa Giêsu mà “chúng ta không bao giờ mệt mỏi trong việc khẩn cầu hoà bình cho miền này”. Ngài nhắc lại cuộc gặp gỡ cầu nguyện cho hoà bình tại Vatican hồi tháng 6 năm ngoái với sự tham dự của Tổng thống Israel bấy giờ là ông Shimon Peres và Tổng thống Palestine Abbas và ngài tái kêu gọi chấm dứt bạo lực, đạt tới một giải pháp giúp người Palestine và Israel rốt cục được sống trong hoà bình, để cụ thể hoá giải pháp hai quốc gia.

Tiếp đến, ĐTC Phanxicô nói đến Irak và Syria nơi vẫn còn những cuộc xung đột kéo dài, với những hậu quả thê thảm kể cả về khía cạnh làm cho nạn khủng bố cực đoan lan tràn.

Chủ nghĩa khủng bố phủ nhận con người và Thiên Chúa

Ngài trình này một suy tư về hiện tượng khủng bố bi thảm và khẳng định rằng đó là “hậu quả của một nền văn hoá loại bỏ được áp dụng cho Thiên Chúa. Thật vậy, trào lưu tôn giáo cực đoan, trước khi nó là một sự loại bỏ con người qua những cuộc thảm sát kinh khủng, thì nó là sự phủ nhận chính Thiên Chúa, coi Chúa chỉ là một cái cớ ý thức hệ. Đứng trước sự gây hấn bất công chống lại cả các tín hữu Kitô và các nhóm chủng tộc và tôn giáo khác trong vùng, cần có một câu trả lời nhất chí, trong khuôn khổ công pháp quốc tế, ngăn chặn sự lan tràn bạo lực, tái lập sự hoà hợp và chữa lành những vết thương sâu đậm mà các cuộc xung đột nối tiếp nhau đã tạo ra.

ĐTC tái kêu gọi cộng đồng quốc tế cũng như mỗi chính phủ hãy có những sáng kiến cụ thể để kiến tạo hoà bình và bênh vực những người đau khổ vì chiến tranh và bách hại. Ngài nhắc lại lá thư đã gửi hồi trước Giáng Sinh cho các cộng đồng Kitô ở Trung Đông và nhấn mạnh: “Một Trung Đông không còn Kitô hữu thì sẽ là một Trung Đông bị biến dạng và què quặt.” Ngoài ra, một lần nữa ngài cầu mong “các vị lãnh đạo tôn giáo, chính trị, trí thức, đặc biệt là Hồi giáo, lên án bất kỳ sự giải thích tôn giáo một cách cực đoan và duy căn, nhắm biện minh cho những hành vi bạo lực như thế”, và ĐTC cũng lấy làm tiếc vì những hình thức tàn bạo như thế cũng không thiếu ở các nơi khác trên thế giới.

Xung đột tại các nước Phi châu

ĐTC đề cập đến các cuộc xung đột ở Phi châu, và nhận xét rằng nhiều nước Phi châu cũng bị đảo lộn vì chiến tranh, bắt đầu từ Nigeria, nơi vẫn chưa chấm dứt những bạo lực chống lại các thường dân một cách bừa bãi, trong khi hiện tượng bi thảm bắt cóc người tiếp tục gia tăng tại nước này. Ngài tố giác hiện tượng đáng kinh tởm là nạn buôn các trẻ nữ bị bắt cóc để cưỡng bách kết hôn.

ĐTC cũng nghĩ đến nước Lybia đang bị sâu xé vị cuộc nội chiến dài dẳng, gây ra những đau khổ khôn tả cho dân chúng và có những hậu quả trầm trọng đối với sự quân bình mong manh trong vùng này. Ngài nghĩ đến Cộng hoà Trung Phi nơi mà người ta phải đau lòng nhận thấy thiện chí của những người đang cố gắng xây dựng hoà bình đang gặp phải sự kháng cự của những hình thức chống đối và những lợi lộc phe phái ích kỷ.

ĐTC bày tỏ lo âu về tình trạng ở Sudan, Vùng Sừng ở Phi châu, Cộng hoà Dân chủ Congo nơi mà hàng ngàn người phải đi tị nạn bạo lực. Ngài không quên kêu gọi các vị hữu trách dấn thân hơn để bênh vực hoà giải, hoà bình và phẩm giá con người.

Tội ác hãm hiếp


ĐTC đặc biệt tố giác sự kiện chiến tranh cũng mang theo một tội ác đáng kinh tởm là sự hãm hiếp. Đây là một sự vi phạm rất trầm trọng chống lại phẩm giá của phụ nữ, không những họ bị vi phạm trong thân thể, nhưng cả trong tâm hồn, với chấn thương khó có thể xoá bỏ được. Rất tiếc là nơi nào có chiến tranh thì người ta cũng thấy có quá nhiều phụ nữ phải chịu đau khổ vì bạo hành, do tội ác này.

Bệnh dịch Ebola

Đề cập tới bệnh dịch Ebola, ĐTC nhận xét rằng trong nền văn hoá loại bỏ cũng có một cách người ta đối xử với các bệnh nhân, bị cô lập và gạt ra ngoài lề như những người cùi mà Phúc Âm nói tới. ĐTC định nghĩa các nạn nhân Ebola như những người cùi trong thời đại chúng ta ngày nay, nhất là tại Liberia, Sierra Leone và Guinea, với hơn 6.000 người chết. Ngài tái cám ơn các nhân viên y tế, các tu sĩ và những người thiện nguyện chăm sóc các bệnh nhân Ebola đồng thời kêu gọi cộng đồng quốc tế đảm bảo một sự trợ giúp nhân đạo thích hợp cho các bệnh nhân và thăng tiến một sự dấn thân chung để loại trừ bệnh dịch.

Những người tị nạn và di dân


Sang đến những người tị nạn và di cư, ĐTC nói: “Trong số những hậu quả của các cuộc xung đột, thường có sự trốn chạy của hàng ngàn người rời bỏ nguyên quán của họ… biết bao người đã bỏ mạng trong những hành trình không xứng đáng với con người, phải chịu đủ thứ hành hạ của những lý hình tham lan tiền bạc. Địa Trung Hải không thể trở thành một đại nghĩa trang.”

ĐTC tố giác sự kiện nhiều người di dân, nhất là tại Mỹ châu, là các trẻ em đi một mình, dễ trở thành mồi cho những nguy hiểm. Các em đang cần được quan tâm, săn sóc và bảo vệ nhiều hơn.

Ngài nhấn mạnh thảm trạng bị từ chối mà bao nhiêu người di dân phải chịu. Họ thường đến những miền đất lạ, không có giấy tờ, cũng chẳng biết ngôn ngữ tại nước ấy. Người di dân thật khó được chấp nhận và khó tìm được công ăn việc làm. ĐTC kêu gọi thay đổi thái độ đối với họ, để đi từ thái độ dửng dưng và sợ hãi sang thái độ chân thành đón nhận tha nhân. Ngài không quên kêu gọi thiết lập những luật lệ thích hợp và sự dấn thân của quốc tế để cứu giúp những người tị nạn và di cư. Ngoài ra, cần chữa trị tận căn hiện tượng này chứ không phải chỉ chữa trị hậu quả mà thôi.

Công ăn việc làm và gia đình

ĐTC đề cập đến vấn đề công ăn việc làm và gia đình. Ngài nói: “Những người lưu vong thầm kín” đang sống trong gia cư của chúng ta: những người già, người tàn tật và người trẻ không tìm được công ăn việc làm. Những người già bị gạt bỏ khi họ bị coi như gánh nặng và sự hiện diện của họ bị coi như một sự phiền phức, trong khi người trẻ bị gạt bỏ khi người ta không giúp họ có công ăn việc làm.”

ĐTC nói: Không có sự nghèo đói nào tệ hơn là thứ nghèo đói không có việc làm và phẩm giá của lao công, hoặc biến lao công thành một hình thức nô lệ. Sự thất nghiệp của người trẻ, cũng như sự bóc lột sức lao động của trẻ vị thành niên là điều trái ngược với phẩm giá con người và xuất phát từ một não trang đặt tiền bạc ở trung tâm và gây hại cho chính con người.

ĐTC Phanxicô tố giác sự kiện nhiều khi gia đình trở thành đối tượng cho sự gạt bỏ vì thứ văn hóa cá nhân chủ nghĩa ngày càng lan tràn, tạo ra sự giảm bớt số sinh và những luật lệ dành ưu tiên cho những hình thức sống chung khác, thay vì nâng đỡ gia đình một cách thích hợp để mưu cộng tác cho toàn thể xã hội.

Kêu gọi Italia thắng cám dỗ đụng độ


ĐTC không quên nhắc đến quốc gia Italia yêu quý, đang phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng kinh tế như bao nước khác, cuộc khủng hoảng này sinh ra sự thiếu tín nhiệm và tạo điều kiện cho những xung đột xã hội. Những hậu quả của tình trạng đó người ta thấy ở Roma và Italia khi gặp bao nhiêu người sống trong tình trạng cơ cực. ĐTC nhấn mạnh rằng Italia cần phải vượt thắng bầu không khí bất an kéo dài về mặt xã hội, chính trị và kinh tế. Nhân dân Italia đừng chiều theo sự buông xuôi và cám dỗ đụng độ nhau, nhưng tái khám phá những giá trị của sự chú ý đến nhau và liên đới là nền tảng của sự sống chung với nhau và là nguồn mạch sự tín nhiệm người khác và tin tưởng nơi tương lai, nhất là đối với người trẻ.

Viếng thăm Sri Lanka và Philippines


ĐTC cũng nói đến người trẻ khi nhắc lại cuộc viếng thăm của ngài tại Hàn Quốc nhân Ngày Giới trẻ Á châu và ngài đề cập đến cuộc viếng thăm ngài sắp thực hiện tại Sri Lanka và Philippines. Biến cố này chứng tỏ sự quan tâm và ân cần về mục vụ của ngài khi theo dõi các thăng trầm của Á châu. Ngài cũng tái cầu mong hai nước Triều Tiên anh em mở lại các cuộc đối thoại với nhau.

Thành quả hoà bình

Vào đầu năm mới, ĐTC cho biết ngài không muốn cái nhìn của ngài có sắc thái bi quan và ngài cảm tạ Thiên Chúa về những hồng ân, các cuộc gặp gỡ, đối thoại và nhất là một số thành quả của hoà bình. Trong ý hướng đó, ĐTC nhắc đến cuộc viếng thăm của ngài tại Albani, mặc dù có những vết thương phải chịu trong lịch sử gần đây, nhưng nay là một nơi sống chung hoà bình và tôn trọng tín nhiệm lẫn nhau giữa các tín hữu Công giáo, Chính thống và Hồi giáo. Ngài nhận định rằng niềm tin chân thành nơi Thiên Chúa làm ta cởi mở đối với tha nhân, tạo ra đối thoại và hoạt động cho công ích, trong khi bạo lực luôn nảy sinh từ sự huyền thoại hoá chính tôn giáo của mình, nhiều khi viện cớ những dự án ý thức hệ, nhắm mục tiêu duy nhất là người thống trị người. ĐTC nhắc đến cuộc đối thoại đại kết và liên tôn ở Thổ Nhĩ Kỳ và tinh thần đón tiếp ở Giordani. Ngài cầu mong Liban vượt thắng được những khó khăn hiện nay về chính trị.

Hoa Kỳ và Cuba xích lại gần nhau


Trong số những ví dụ về đối thoại có thể thực sự kiến tạo được những nhịp cầu, ĐTC Phanxicô nhắc đến quyết định mới đây của Hoa Kỳ và Cuba chấm dứt sự im lặng đối với nhau dài hơn một nửa thế kỷ và xích lại gần nhau để mưu ích cho các công dân cả hai nước. Ngoài ra ngài hài lòng chào mừng ý muốn của Hoa Kỳ đóng cửa vĩnh viễn nhà tù ở Guantanamo.

ĐTC nói đến nước Burkina Faso đang dấn thân trong một thời kỳ mới cộng tác và phát triển, và Philippines đã ký một hiệp định chấm dứt những năm căng thẳng tại nước này. Ngài cũng khích lệ cuộc hoà đảm tại Colombia, sự hoà hợp ở Venezuela, và thoả hiệp chung kết giữa Iran và nhóm các nước gọi là “5 cộng 1”, về việc sử dụng năng lượng hạt nhân vào những mục tiêu hòa bình.

70 năm thành lập Liên Hiệp Quốc và hiệp định về khí hậu

Trong phần kết của bài diễn văn, ĐTC nhắc lại rằng cách đây 70 năm LHQ đã được khai sinh từ đống tro tàn của thảm hoạ kinh khủng là Thế chiến II. Ngài nhắc lại bài diễn văn lịch sử của Đức Chân phước Giáo hoàng Phaolô VI trong cuộc viếng thăm LHQ hồi năm 1965, đó là lời kêu gọi tha thiết: “Đừng chiến tranh nữa, đừng bao giờ gây chiến nữa.” ĐTC Phanxicô lặp lại lời kêu gọi này khi đặc biệt nghĩ đến chương trình phát triển hậu 2015 với những mục tiêu phát triển dài hạn và soạn thảo một hiệp định mới về khí hậu. Ngài xác tín rằng trong cả các tiến trình đó, một điều kiện không thể thiếu được chính là hoà bình, nảy sinh từ sự hoán cải tâm hồn.