Giải mã bí ẩn bãi cọc Bạch Đằng Giang
726 năm trước, nước Đại Việt bé nhỏ đã đánh tan tác 600 chiến thuyền và 40 vạn quân Nguyên Mông trong trận thủy chiến Bạch Đằng. Dòng chảy thời gian hơn 700 năm đã che phủ nhiều bí ẩn quanh trận thủy chiến oanh liệt này.
Giải mã bí ẩn bãi cọc Bạch Đằng Giang
726 năm trước, nước Đại Việt bé nhỏ đã đánh tan tác 600 chiến thuyền và 40 vạn quân Nguyên Mông trong trận thủy chiến Bạch Đằng. Dòng chảy thời gian hơn 700 năm đã che phủ nhiều bí ẩn quanh trận thủy chiến oanh liệt này.
Từ Hà Nội, TS Nguyễn Việt về Quảng Ninh lần theo dấu vết khảo cổ và thư tịch bạc màu thời gian, cùng các cộng sự thực hiện dự án khảo sát đáy sông, biển Vân Đồn, Bạch Đằng để tìm kiếm những gì còn lại từ các trận thủy chiến oanh liệt.
Các thợ lặn và chuyên gia khảo cổ từ Hàn Quốc cũng được mời tham gia khảo sát. Họ hi vọng có thể tìm thấy dấu vết đoàn thuyền chiến bại của đội quân Nguyên Mông.
“726 năm là quãng thời gian khá dài, nhưng có lẽ cũng không thể làm tan biến hết được những con thuyền được đóng từ gỗ quý chìm sâu dưới đáy nước” – một chuyên gia khảo cổ nước trầm ngâm tâm sự.
“Cổ họng” chiến bại
Những ngày ở thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh, nơi Bạch Đằng giang hòa vào biển Đông, tôi cố gắng lần tìm lại dấu vết trận thủy chiến oanh liệt của quân dân nhà Trần 726 năm trước.
Dòng chảy thời gian cùng bao thời cuộc thăng trầm đã làm cảnh vật dải sông núi hùng thiêng này đổi thay rất nhiều so với sử xưa ghi chép.
Tuy nhiên, điều đặc biệt là nhiều người dân ở đây như “pho sử sống” từ những ký ức tổ tiên mình truyền đời để lại. Không chỉ các nhà nghiên cứu lịch sử, cán bộ bảo tàng địa phương, mà cả cụ già giữ đền, cô hàng nước, anh xe ôm đều có thể dẫn tôi đến được những bãi trận địa năm xưa…
Chiều muộn, cơn mưa dông từ ngoài biển đang vần vũ kéo vào đất liền cùng thời sự ở Hoàng Sa làm trĩu lòng người. Tôi tranh thủ việc đầu tiên là ghé đền Trần Hưng Đạo, để được thắp nén hương trước tượng thờ vị danh tướng.
Người địa phương đều tin rằng ông linh thiêng lắm, còn tôi thầm xin ông dẫn đường cho mình trở lại đúng nơi chiến trường vệ quốc năm xưa.
Cụ thủ hương Lê Hữu Lâm, 84 tuổi, trao cho tôi nén hương đỏ lửa rồi trầm tư kể rằng dưới từng tấc đất này đều đẫm dày trầm tích chiến trận.
Đền Trần nằm ngay bên bờ sông Bạch Đằng, và con sông lịch sử hùng thiêng đất Quảng Ninh này được các nhánh sông lớn nhỏ hợp thành trước khi đổ ra biển Đông.
Sách Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, đến phần Quảng Yên đã mô tả rất tỉ mỉ về sông Bạch Đằng: “Bạch Đằng giang nằm cách huyện Yên Hưng 5 dặm về phía tây. Nguồn từ sông Lục Đầu, tỉnh Hải Dương, chảy qua địa giới huyện Thủy Đường (huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng ngày nay – PV), chia làm hai chi: một chi do sông Mỹ Giang chảy về phía đông 17 dặm, qua núi Châu Cốc (Hang Sơn) chảy về phía đông bắc 25 dặm hợp dòng đổ về xã Đoan Lễ làm thành sông Bạch Đằng (phía nam là địa giới huyện Thủy Đường, phía bắc là địa giới huyện Yên Hưng). Bạch Đằng chảy về hướng nam đến phía đông bến đò xã Yên Hưng chia ra một chi thông với sông Tranh, còn dòng chính thì chảy sang phía nam 29 dặm đổ ra cửa biển Bạch Đằng. Năm Minh Mạng thứ 17 đúc Cửu Đỉnh khắc vào Nghị Đỉnh. Năm Tự Đức thứ ba liệt vào hàng sông lớn, ghi vào tự điển thờ”.
Sách Nam Phong trong phần khảo về địa dư và lịch sử tỉnh Quảng Yên cũng ca ngợi dòng sông lịch sử này: “Bạch Đằng là con sông lớn nhất tỉnh Quảng Yên (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh), phía đông ngạn thuộc xã Yên Hưng, phía tây ngạn thuộc về xã Đoan Lễ, huyện Thủy Đường. Thủy trào sâu 2 trượng 5 thước, thủy tịch sâu 1 trượng 7 thước. Giữa sông có một bãi ám sa, bến đò ở đó mênh mông rất rộng”.
Ngoài tên Bạch Đằng giang đã lưu danh chính sử, người địa phương còn truyền đời gọi dòng sông này là sông Rừng và Vân Cừ.
Hai cái tên phát nguồn từ chính đặc điểm địa lý tự nhiên thuở ấy với các cánh rừng bạt ngàn che phủ đến tận bờ bãi sông xưa. Đến giờ tuy rừng xưa đã mất, nhưng cái tên quen gọi đó vẫn còn gắn bó với nhiều địa danh đất này như chợ Rừng, phà Rừng, làng Rừng, giếng Rừng…
Các đền miếu xưa ở đây vẫn còn nguyên vẹn các cột, kèo gỗ rừng quý như lim, táu. Và đặc biệt, bãi cọc hiểm yếu làm nên chiến thắng Bạch Đằng được lấy từ chính cánh rừng ngay bên bờ sông này.
Còn tên Vân Cừ của Bạch Đằng giang cũng là một cái tên cổ ngợi ca vẻ đẹp lẫn địa thế hiểm yếu có giá trị vệ quốc. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí đã thốt lên: “Sông Vân Cừ rộng 2 dặm 69 trượng, sâu 5 thước, trên có núi non cao vót, nước suối giao lưu, sóng tung lên tận chân trời, thật là nơi hiểm yếu. Nước ta khống chế kẻ Bắc, sông này là chỗ cổ họng”. Từ Ngô Quyền đến vua tôi nhà Trần đều nhìn thấy rõ địa thế hiểm yếu này để quyết định giăng những trận thủy chiến quyết định với kẻ thù xâm lược.
Bia lưu danh công đức của triều Trần bên bờ sông Bạch Đằng - Ảnh: Quốc Việt |
Con đường xâm lược của quân phương Bắc
Trên con đường về cửa sông Bạch Đằng, TS Nguyễn Việt tâm sự từ lâu ông đã không chỉ khảo sát bãi chiến địa này, mà còn cố gắng lần dấu thủy lộ xâm lược của quân phương Bắc.
Một trọng tâm trong công trình khảo sát đáy biển Vân Đồn mà ông và nhóm chuyên gia Hàn Quốc đang thực hiện chính là tìm lại nơi đoàn thuyền lương Trương Văn Hổ bị đánh tan tác.
Thư tịch cổ ghi rằng mùa đông năm 1287, toàn bộ quân lương Nguyên Mông do Trương Văn Hổ cầm quân áp tải đã bị vị thủy tướng nước Việt Trần Khánh Dư đánh chìm tại vùng biển này. Một trận chiến bất ngờ, nhanh chóng, báo trước chiến bại ê chề lần thứ ba của cả đoàn quân thủy bộ xâm lược Nguyên Mông.
Theo TS Nguyễn Việt, công trình khảo cổ nước này thành công sẽ góp phần làm rõ thêm con đường xâm lược của quân phương Bắc.
Các thư tịch, sử liệu cổ của nước Việt và Trung Quốc đều nhắc đi nhắc lại từ xa xưa đường biển dọc theo Quảng Ninh, qua Vân Đồn vào hệ thống cửa sông Bạch Đằng, tiến sâu vô nội địa nước Việt đã được các đoàn quân phương Bắc nhiều lần sử dụng để xâm lược quốc gia phía Nam.
Từ năm 43 sau Công nguyên, cánh thủy quân Đoàn Chí của Mã Viện đã theo thủy lộ này vào hội với binh mã nhà Hán ở vùng Lục Đầu để giao chiến với Hai Bà Trưng.
Đến năm 546, thủy quân nhà Lương lại vào cửa ngõ Bạch Đằng đi lên sông Luộc, đánh nước Vạn Xuân ở miền Chu Diên. Sang các năm 938, 981, 1288, quân dân nước Việt do Ngô Quyền, Lê Hoàn, Trần Hưng Đạo cũng lần lượt phải vệ quốc trước các đội quân xâm lược Nam Hán, Tống, Nguyên Mông ở cửa ngõ phên giậu này của Tổ quốc.
Từ phương Bắc, các triều đại Nam Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều nghiên cứu kỹ lưỡng thủy lộ an toàn này xuất phát từ duyên hải Quảng Đông xuyên qua vùng vịnh Quảng Ninh, vào hệ thống cửa sông Bạch Đằng của nước Việt.
Nhiều tác giả Trung Hoa còn đặt tên cho đường biển xâm lược này là Đông Kênh. Nhìn trên bản đồ chiến lược, quân phương Bắc có thể theo thủy lộ này tiến rất nhanh vào kinh thành Thăng Long mà không phải vượt qua địa hình rừng thiêng nước độc, đối đầu với nhiều trận địa phòng thủ nếu đi đường bộ.
Đặc biệt, tàu thuyền qua biển Quảng Ninh cũng tránh được mối nguy bão tố với nhiều hòn đảo lớn nhỏ che chắn. Ngoài ra, từ con đường này, thủy quân còn nhanh chóng hội với sức mạnh kỵ binh ngay khi vừa vào đến đất liền.
Tuy nhiên, những người ái quốc cũng nhìn thấy rõ địa thế hiểm yếu của thủy lộ này để đánh bại các đoàn quân xâm lược.
QUỐC VIỆT
__________
Từ giữa thế kỷ 20, nhiều bãi cọc Bạch Đằng đã được phát lộ để lại câu chuyện “cổ họng” hiểm yếu, nơi sông vùi tàu giặc, bùn chôn quân thù.