26/11/2024

Những mối phúc đức tin

“Hạnh phúc thay những ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Trong bài Phúc Âm hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố mối phúc này: mối phúc của niềm tin. Bài đọc II cũng nói với chúng ta về đức tin. Chính Thánh Phêrô, lòng đầy phấn khởi, đã cho các tín hữu vừa được rửa tội biết tại sao họ hy vọng và vui mừng.

 Những mối phúc đức tin

Thánh lễ phong Chân phước cho người Tôi tớ Chúa là Đức Gioan Phaolô II
Nhà nguyện Đức Giáo hoàng
Tiền đường Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô
Chúa Nhật II PS, kính Lòng Chúa Thương Xót, 1/5/2011

Anh chị em thân mến!

Cách đây 6 năm chúng ta tụ họp trên quảng trường này để cử hành lễ tang Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Nỗi đau mất ngài thật thê thiết, nhưng ý thức của chúng ta về một hồng ân bao la đang bao trùm kinh thành Rôma và toàn thế giới thì vẫn lớn hơn: một hồng ân mà một cách nào đó là thành quả của toàn bộ cuộc đời người tiền nhiệm đáng mến của tôi, đặc biệt là thành quả của chứng tá của ngài trong đau khổ. Ngày hôm đó, chúng ta đã cảm thấy hương thơm thánh thiện của ngài đã lan toả, và Dân Chúa, bằng nhiều cách khác nhau, đã biểu lộ sự tôn kính đối với ngài. Chính vì thế, trong khi vẫn tôn trọng quy định đang có hiệu lực trong Giáo Hội, tôi đã muốn cho án phong chân phước của ngài có thể được xúc tiến một cách nhanh chóng hơn. Và giờ đây, ngày mà mọi người mong chờ biết bao nay đã đến! Ngày đó đã đến nhanh, bởi vì điều đó đẹp lòng Chúa: Đức Gioan Phaolô II được phong chân phước!

Tôi xin gửi những lời chào thân ái đến tất cả anh chị em trong dịp hạnh phúc này, anh chị em là những người từ các vùng đất khác nhau trên thế giới đã đến Rôma thật đông đảo – các Hồng y, Thượng phụ Giáo chủ của các Giáo hội Đông phương Công giáo,  Anh em trong Giám mục đoàn và linh mục đoàn, các phái đoàn chính thức, các vị đại sứ và các cấp chính quyền, những người sống đời thánh hiến và các tín hữu giáo dân, cũng như những tín hữu giáo dân đang kết hợp với chúng ta qua truyền thanh và truyền hình.

Chúa Nhật II Phục Sinh hôm nay được Chân phước Gioan Phaolô II dành riêng để kính Lòng Chúa Thương Xót. Chính vì thế, chúng ta chọn ngày hôm nay để cử hành lễ phong chân phước, bởi vì theo ý định của Chúa Quan Phòng, vị tiền nhiệm của tôi đã trút hơi thở cuối vào buổi chiều áp lễ. Hơn nữa, hôm nay là ngày đầu tháng Năm, tháng kính Đức Maria, và cũng là ngày lễ nhớ Thánh Giuse thợ. Các yếu tố này đã góp phần làm cho kinh nguyện của chúng ta được trở nên phong phú và giúp chúng ta là những người đang còn lữ hành trong không gian và thời gian; trong khi đó thì trên Trời cao, một cuộc cử hành rất khác biệt cũng đang được diễn ra giữa các thiên thần và các thánh! Tuy nhiên, Thiên Chúa chỉ là một, và Chúa Kitô cũng chỉ là một, Người như một cây cầu nối liền Trời với đất. Và vào giờ phút này, chúng ta cảm thấy mình gần gũi hơn bao giờ hết, gần như là những đang người tham dự phụng vụ thiên quốc.

«Hạnh phúc thay những ai không thấy mà tin» (Ga 20,29). Trong bài Phúc Âm hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố mối phúc này: mối phúc của niềm tin. Mối phúc này đặc biệt đánh động chúng ta, bởi vì chúng ta đang quy tụ nơi đây để cử hành lễ phong chân phước, và hơn thế nữa, bởi vì ngày hôm nay, người được phong chân phước là một Giáo hoàng, một người kế vị Phêrô, một người được mời gọi để kiên vững anh em của mình trong đức tin. Đức Gioan Phaolô II là Chân phước nhờ vào đức tin của ngài, một đức tin mạnh mẽ, quảng đại và tông truyền. Và một mối phúc khác lại hiện đến trong tâm trí chúng ta: «Này Simon con ông Giona, con thật có phúc, bởi vì không phải máu thịt mạc khải cho con điều ấy, nhưng là Cha Ta Đấng ngự trên trời» (Mt 16,17). Như thế, Chúa Cha trên trời đã mạc khải cho Simon điều gì? Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Nhờ đức tin này, Simon đã trở nên «Đá» mà trên đó Đức Giêsu có thể xây Hội Thánh của Người. Mối phúc vĩnh cửu của Đức Gioan Phaolô II mà hôm nay Giáo Hội vui mừng tuyên bố hoàn toàn nằm trong những lời nói sau đây của Đức Kitô: «Hỡi Simon, con thật có phúc» và «Phúc thay những người không thấy mà tin!». Đó là mối phúc của niềm tin mà Đức Gioan Phaolô II đã lãnh nhận từ tay Chúa Cha như một hồng ân để xây dựng Giáo Hội của Đức Kitô.

Tuy nhiên, chúng ta lại nghĩ đến một mối phúc khác mà trong Phúc Âm lại đi trước tất cả các mối phúc. Đó là mối phúc của Đức Trinh Nữ Maria, Thân Mẫu Đấng Cứu Thế. Thánh nữ Elisabeth đã nói về Đức Maria, người vừa mới thụ thai Đức Giêsu, như sau: «Phúc thay người tin vào lời Chúa phán với mình sẽ được thực hiện!» (Lc 1,45). Đức Maria là mẫu mực của mối phúc về niềm tin và tất cả chúng ta vui mừng vì ngày lễ phong chân phước cho Đức Gioan Phaolô II lại được diễn ra trong ngày đầu tháng kính Đức Mẹ, dưới cái nhìn hiền mẫu của Đấng đã dùng niềm tin của mình nâng đỡ đức tin của các tông đồ, và không ngừng nâng đỡ đức tin của những người kế vị các ngài, đặc biệt đức tin của những ai được kêu gọi ngồi lên ngai toà Phêrô. Đức Maria không được nhắc đến trong các trình thuật về sự sống lại của Đức Kitô, nhưng Mẹ vẫn không ngừng âm thầm hiện diện ở khắp nơi: Người là Mẹ, là người mà Đức Giêsu đã trao cho mỗi người trong các môn đệ và cho toàn thể cộng đồng. Đặc biệt, chúng ta ghi nhận sự hiện diện đầy quyền năng và đầy tình mẫu tử của Đức Maria được Thánh Gioan và Thánh Luca nhắc đến trong các đoạn đi trước các bản văn của Tin Mừng hôm nay và của bài đọc I: trong trình thuật về cái chết của Đức Giêsu, chúng ta thấy Đức Maria đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25); và ở trong phần đầu sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy Đức Maria hiện diện giữa các môn đệ đang họp nhau cầu nguyện trong phòng Tiệc Ly (Cv 1,14).

Bài đọc II hôm nay cũng nói với chúng ta về đức tin. Chính Thánh Phêrô, lòng đầy phấn khởi, đã cho các tín hữu vừa được rửa tội biết tại sao họ hy vọng và vui mừng. Tôi muốn đưa ra một ghi nhận là trong đoạn văn này, trong phần đầu thư thứ nhất của Thánh Phêrô, ngài không dùng thể huấn dụ mà dùng thể trình bày sự kiện; thật thế, ngài viết: “Anh em hân hoan vui mừng», và ngài nói thêm: «Dầu không thấy Người, nhưng anh em vẫn yêu mến Người; tuy chưa được giáp mặt, nhưng anh em vẫn tin vào Người và hân hoan vui mừng, lòng tràn ngập một niềm vui khôn tả và rực rỡ vinh quang, bởi anh em đang nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ của con người” (1P 1,6.8-9). Tất cả những động từ trên đều được diễn tả qua thể trình bày, bởi vì Đức Kitô phục sinh đã mang lại một thực tại mới, một thực tại mà ta có thể đạt tới nhờ cánh cửa đức tin. «Đó là việc Chúa đã làm – Thánh vịnh đã nói như thế (118,23) – đó là một điều kỳ diệu trước mắt chúng ta», trước đôi mắt đức tin.

Anh chị em thân mến, ngày hôm nay, gương mặt khả ái và đáng kính của Đức Gioan Phaolôo II rạng ngời trong đôi mắt chúng ta, trong ánh sáng thiêng liêng tràn đầy của Đức Kitô Phục Sinh. Ngày hôm nay, tên của ngài đã được ghi vào con số đông đảo các thánh và các chân phước mà ngài đã tuyên phong trong gần 27 năm triều đại Giáo Hoàng của ngài, mạnh mẽ nhắc lại cho chúng ta ơn gọi phổ quát hướng đến chiều kích cao cả của đời sống Kitô hữu, đó là ơn gọi nên thánh, như Hiến chế Lumen Gentium về Giáo Hội của Công đồng đã quả quyết. Tất cả các thành viên trong Dân Chúa – Giám mục, linh mục, phó tế, tín hữu giáo dân, tu sĩ nam nữ –, chúng ta đang trên đường tiến về thiên quốc, nơi Đức Trinh Nữ Maria, người đã kết hợp một cách đặc biệt và hoàn hảo với mầu nhiệm của Đức Kitô và Hội Thánh, đã đến trước chúng ta. Đức Karol Wojtyła đã tham dự Công đồng chung Vatican II, trước tiên với tư cách là Giám mục phụ tá và sau đó là Tổng Giám mục Giáo phận Cracovie. Ngài đã ý thức rõ rằng quyết định của Công đồng dành chương cuối trong Hiến chế về Giáo Hội cho Đức Maria có nghĩa là đặt thân mẫu của Đấng Cứu Chuộc làm hình ảnh và mẫu mực của sự thánh thiện cho mỗi Kitô hữu và cho toàn thể Giáo Hội. Đó là tầm nhìn thần học mà Chân phước Gioan Phaolô II đã khám phá ra khi ngài còn trai trẻ, được ngài gìn giữ và đào sâu trong suốt cả cuộc đời.

Cái nhìn này được diễn tả trong bức ảnh Kinh Thánh nói về cảnh Đức Kitô trên thập giá và bên cạnh Người là Đức Maria Mẹ Người. Bức ảnh trong Phúc Âm theo Thánh Gioan (19,25-27) được gồm tóm trong huy hiệu Giám mục và sau đó trong huy hiệu Giáo Hoàng của Đức Karol Wojtyła: một Thánh giá bằng vàng, một chữ «M» ở bên phải phía dưới với câu châm ngôn «Totus tuus», được trích từ câu nói nổi tiếng của Thánh Louis Marie Grignion de Montfort, mà Đức Karol Wojtyła đã xem như câu châm ngôn hướng dẫn đời mình: «Totus tuus ego sum et omnia mea tua sunt. Accipio Te in mea omnia. Praebe mihi cor tuum, Maria – Con hoàn toàn thuộc về Mẹ và tất cả những gì của con là của Mẹ. Con nhận Mẹ làm tất cả của đời con. Lạy Mẹ Maria, xin ban cho con quả tim của Mẹ» (Chuyên luận về lòng tôn sùng đích thật đối với Đức Maria, số 233 và 266).

Trong chúc thư của mình, vị Tân Chân phước đã viết như sau: «Vào ngày 16-10-1978, khi mật nghị các Hồng y chọn Gioan Phaolô II, thì Đức Hồng y Stefan Wyszyński, Giáo trưởng Ba Lan đã nói với tôi: “Nhiệm vụ của Đức tân Giáo Hoàng là dẫn đưa Giáo Hội vào trong Thiên niên kỷ thứ  ba”. Và Đức Giáo Hoàng viết tiếp: «Một lần nữa, tôi muốn biểu lộ lòng biết ơn đối với Chúa Thánh Thần vì hồng ân vĩ đại là Công đồng Vatican II mà tôi, cùng với toàn thể Giáo Hội đều phải mang ơn – và nhất là cùng toàn thể hàng Giám mục –. Tôi xác tín rằng các thế hệ mới còn được kín múc trong một thời gian dài những phong phú mà Công đồng của thế kỷ XX này đã mang lại cho chúng ta. Với tư cách là Giám mục đã tham dự biến cố Công đồng từ ngày đầu đến ngày cuối, tôi muốn giao phó di sản vĩ đại này cho những ai đang và sẽ được kêu gọi thực hiện di sản này cho tương lai. Về phần tôi, tôi tạ ơn vị Mục tử vĩnh cửu đã cho phép tôi phục vụ đại cục thật vĩ đại này trong suốt những năm tháng vừa qua dưới triều đại Giáo Hoàng của tôi». Và «đại cục» này là gì? Cũng chính là điều mà Đức Gioan Phaolô II đã nói lên trong Thánh lễ đại triều đầu tiên của ngài tại Quảng trường Thánh Phêrô bằng những lời đáng ghi nhớ sau đây: «Xin đừng sợ! Xin hãy mở, xin hãy mở thật rộng cửa cho Đức Kitô!». Điều mà Đức tân đắc cử Giáo hoàng yêu cầu mọi người, thì chính ngài là người đầu tiên thực hiện: xã hội, văn hoá, những hệ thống chính trị và kinh tế, ngài đã mở ra cho Đức Kitô, ngài đã đảo ngược với sức mạnh của một tay khổng lồ – một sức mạnh đến với ngài từ Thiên Chúa – một xu thế mà ta nghĩ là không thể nào đảo ngược được. Với chứng tá đức tin, tình yêu và lòng can đảm tông đồ của ngài, cùng với một đặc sủng lớn lao về mặt nhân bản, người con gương mẫu của đất nước Ba Lan này đã giúp những Kitô hữu trên toàn thế giới không sợ khi xưng mình là Kitô hữu, khi nói mình thuộc về Giáo Hội, khi nói về Tin Mừng. Tắt một lời, ngài đã giúp chúng ta không sợ sự thật, bởi vì sự thật bảo đảm cho tự do. Nói một cách cô đọng hơn nữa: ngài đã mang lại cho chúng ta sức mạnh để tin vào Đức Kitô, bởi vì Đức Kitô là Redemptor hominis, Đấng Cứu Chuộc của con người: đây là chủ đề Thông điệp đầu tiên của ngài và là sợi chỉ quấn quanh tất cả những Thông điệp khác.

Khi Đức Karol Wojtyła bước lên ngai toà Phêrô, ngài đã hiểu thật sâu xa sự khác biệt giữa thuyết Marx với Kitô giáo, dựa trên quan điểm của mỗi bên về con người. Đây là sứ điệp của ngài: con người là đường đi của Giáo Hội, và Đức Kitô là đường đi của con người. Với sứ điệp này, được xem là đại di sản của Công đồng chung Vatican II, và của  «thuỷ thủ đài chỉ huy» của Công đồng, người Tôi tớ Chúa là Đức Phaolô VI, Đức Gioan Phaolô II đã dẫn đưa Dân Chúa vượt qua ngưỡng cửa của Thiên niên kỷ thứ ba, mà dĩ nhiên, nhờ Đức Kitô, ngài đã có thể gọi là «ngưỡng cửa hy vọng». Vâng, xuyên qua chặng đường dài chuẩn bị Đại Năm Thánh, lại một lần nữa, ngài hướng dẫn Kitô giáo đi về tương lai, tương lai của Thiên Chúa, một tương lai vượt qua lịch sử, tuy nhiên vẫn tác động trực tiếp đến lịch sử. Ngài đã có lý khi đòi lại cho Kitô giáo xung lực hy vọng này mà một cách nào đó đã nao núng trước chủ thuyết Marx và ý thức hệ về sự tiến bộ. Ngài đã khôi phục lại cho Kitô giáo gương mặt đích thực của mình như một tôn giáo của niềm hy vọng, để sống trong lịch sử với một tinh thần «Mùa Vọng», trong một cuộc hiện sinh cá nhân và cộng đoàn hướng về Đức Kitô là sự viên mãn của nhân loại và là sự hoàn thành những mong đợi của chúng ta về công lý và hoà bình.

Cuối cùng, xin được nói thêm một ghi nhận mang tính cá nhân, tôi xin được cảm ơn Chúa đã ban cho tôi được làm việc với Chân phước Gioan Phaolô II trong nhiều năm. Trước đó, tôi đã được biết ngài và đánh giá cao về ngài, nhưng từ năm 1982, khi ngài gọi tôi về Rôma giữ chức vụ Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, tôi đã có thể sống gần gũi ngài và ngày càng tôn kính ngài hơn nữa trong suốt 23 năm trời. Bề dày thiêng liêng và những trực giác thật phong phú của ngài đã nâng đỡ công việc phục vụ của tôi. Gương cầu nguyện của ngài vẫn luôn đánh động và soi sáng tôi. Ngài luôn sống kết hợp với Thiên Chúa một cách sâu xa, ngay giữa những bận bịu và bó buộc trong thừa tác vụ của ngài. Và còn có cả chứng tá của ngài trong đau khổ: Chúa đã dần dần lấy đi tất cả nơi ngài, nhưng ngài vẫn luôn là một «đá tảng», như lòng Chúa Kitô mong muốn.  Sự khiêm nhường sâu thẳm của ngài, được bén rễ sâu trong sự kết hợp thân tình với Đức Kitô, đã cho phép ngài tiếp tục hướng dẫn Giáo Hội và mang lại cho thế giới một sứ điệp còn hùng hồn hơn nữa khi ngài không còn đủ sức lực. Ngài đã sống ơn gọi của bất cứ linh mục và giám mục nào một cách tuyệt vời như sau: không làm điều gì khác ngoài việc trở nên một với Đức Giêsu mà ngài lãnh nhận và dâng hiến mỗi ngày trong Giáo Hội.

Lạy Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đáng mến, ngài thật có phúc, bởi vì ngài đã tin!  Chúng con cầu xin ngài: từ Trời cao, xin hãy tiếp tục nâng đỡ đức tin của Dân Chúa. Biết bao lần ngài đã chúc lành cho chúng con trên Quảng trường của Dinh thự Tông toà này. Ngày hôm nay, chúng con cầu xin ngài: Lạy Đức Thánh Cha, xin hãy chúc lành cho chúng con. Amen.