“Phương cách thích hợp nhất để loan báo Tin Mừng trong bối cảnh văn hoá Việt Nam”
Ngày 17/9/2013, Tổ Giáo Lý của Uỷ ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam họp phiên thường kỳ hằng năm để tổng kết hoạt động và chuẩn bị cho cuộc Họp mặt Giáo Lý toàn quốc sẽ diễn ra ở Huế vào năm 2014. Nhân dịp này Tổ mời cha Sơn đến chia sẻ đề tài “Phương cách thích hợp nhất để loan báo Tin Mừng trong bối cảnh văn hoá Việt Nam”. Xin chia sẻ với các bạn đề tài mà phần lớn đã từng chia sẻ trong các tuần tĩnh tâm thường niên cho các dòng tu vừa qua.
“Phương cách thích hợp nhất
để loan báo Tin Mừng
trong bối cảnh văn hoá Việt Nam”
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Giới thiệu: Ngày 17/9/2013, Tổ Giáo Lý của Uỷ ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam họp phiên thường kỳ hằng năm để tổng kết hoạt động và chuẩn bị cho cuộc Họp mặt Giáo Lý toàn quốc sẽ diễn ra ở Huế vào năm 2014. Nhân dịp này Tổ mời cha Sơn đến chia sẻ đề tài “Phương cách thích hợp nhất để loan báo Tin Mừng trong bối cảnh văn hoá Việt Nam”. Xin chia sẻ với các bạn đề tài mà phần lớn đã từng chia sẻ trong các tuần tĩnh tâm thường niên cho các dòng tu vừa qua.
1. Lý do chọn đề tài
Lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (Lc 5,4) bắt nguồn từ lời mời gọi khởi đầu: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Lời kêu gọi ấy gửi đến từng môn đệ của Chúa Giêsu trong bối cảnh thế giới đang thay đổi hết sức nhanh chóng về rất nhiều lĩnh vực nên cũng đòi hỏi Giáo Hội phải thay đổi trong cách sống và loan báo Tin Mừng để chinh phục con người.
Để đáp ứng nhu cầu này, Giáo Hội đã tổ chức Thượng Hội Đồng (THĐ) Giám mục thường kỳ lần XIII với chủ đề: “Tân Phúc Âm Hoá để truyền bá đức tin”. Các giáo hội địa phương cũng được mời đóng góp ý kiến qua bản Đề cương (Lineamenta) của THĐ. Sau đó 400 đại biểu đã họp tại Roma từ ngày 7 đến 28/10/2012 và bàn luận trên bản Tài liệu Làm việc (Instrumentum Laboris) mà chúng ta sẽ tìm hiểu và nhiều lần trích dẫn trong tập tài liệu này.
Từ chủ đề của THĐ và của Năm Đức Tin, các bạn đã đặt câu hỏi: “Phương cách thích hợp nhất để loan báo Tin Mừng trong bối cảnh văn hoá Việt Nam”. Chúng ta sẽ tìm ra câu trả lời: đó là Tân Phúc Âm Hoá (TPAH).
2. Những bước phải đi trong tiến trình TPAH
Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể đi đến kết luận đó sau một loạt các hành động mà Thượng Hội Đồng Giám mục 2012 đã thực hiện giúp chúng ta và đã tóm tắt trong các chương của tập Tài Liệu Làm Việc. Đó là:
1. Tìm hiểu bối cảnh của cuộc TPAH trên thế giới và ở Việt Nam để thấy những thay đồi sâu xa từ Công đồng Vaticanô II đến nay.
2. Tìm hiểu để thấy người Kitô hữu đã hành động như thế nào trước những đổi thay đó trong công cuộc loan báo Tin Mừng và những hành động đó chưa mang lại những kết quả tốt đẹp.
3. Vì thế, Tân Phúc Âm Hoá được đề nghị như là giải pháp tối ưu. Vậy Tân Phúc Âm Hoá là gì và bao gồm những nội dung nào? Tân Phúc Âm Hoá chính là trở lại với Đức Giêsu Kitô, là Tin Mừng sống động của Thiên Chúa.
4. Tân Phúc Âm Hoá để truyền bá đức tin vì đức tin là cuộc gặp gỡ giữa con người với vị Thiên Chúa cụ thể là Đức Giêsu Kitô. Cuộc gặp gỡ này gồm những yếu tố nào và đòi hỏi chúng ta những điều kiện nào?
5. Để có thể gặp được Đức Giêsu Kitô ta cần phải xác tín trọn vẹn vào Người, phải vượt qua những nghi ngờ về lời rao giảng, hành động và mầu nhiệm chết đi và sống lại của Người. Đây là điều kiện cần thiết nhất của người thừa sai vì Người là chính Tin Mừng chúng ta gắn bó và rao giảng với tất cả niềm xác tín.
6. Sau cùng, chúng ta cần phải ra khơi để Tân Phúc Âm hoá, nghĩa là dấn thân cho công cuộc đem Đức Giêsu và Tin Mừng của Người thâm nhập vào các lĩnh vực văn hoá mới mẻ ở Việt Nam.
Như thế “Phương cách thích hợp nhất để loan báo Tin Mừng trong bối cảnh văn hoá Việt Nam chính là Tân Phúc Âm Hoá” .
3. Sứ mạng loan báo Tin Mừng
Quả thực, Đức Giêsu không muốn người môn đệ chúng ta ngồi ung dung trên bờ hay mé nước, vung chiếc cần câu để bắt từng con cá nhỏ, lúc được lúc không, trong chương trình cứu độ. Người muốn chúng ta chèo con thuyền Giáo Hội ra chỗ nước sâu để cùng với anh em khác thả rộng tấm lưới, bắt hàng đàn cá lớn. Chèo ra chỗ nước sâu là chúng ta phải đối mặt với sóng to, gió mạnh và nhiều thử thách gian truân. Chúng ta sẵn lòng, tự nguyện theo Chúa Giêsu ra chỗ nước sâu và tin tưởng rằng Người sẽ cho chúng ta đánh được những mẻ cá lạ lùng (x. Lc 5,4-11) vì chúng ta là những thừa sai, những tông đồ của Chúa Giêsu.
Chúng ta biết từ “thừa sai” (missionarius) hay “tông đồ” (apostolos) đều bắt nguồn từ động từ “được sai đi” của tiếng Latinh (mittere) hay tiếng Hy Lạp (apostello). Vị thừa sai hay tông đồ là người được Chúa và Giáo Hội sai đi rao giảng Phúc Âm cho những ai chưa nhận biết Chúa Giêsu Kitô. Sứ mạng loan báo Phúc Âm này bắt nguồn từ việc Chúa Cha sai Con Một của Ngài đến cứu độ thế giới và Người Con đó trao lại sứ mạng cáo quý đó cho chúng ta kèm theo muôn ơn lành của Chúa Thánh Thần qua làn hơi kỳ diệu Người thổi trên chúng ta: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21-22).
Sau cái chết nhục nhã trên thập giá, Đấng Phục Sinh long trọng sai chúng ta: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Mục đích của việc loan báo Tin Mừng là khơi dậy lòng tin vào Đức Giêsu Kitô để rồi khi đã gặp gỡ và gắn bó với Người rồi ta lại truyền bá đức tin đó cho mọi người, mọi vật. Đó là sứ mạng của mọi Kitô hữu.
Để thúc đẩy công cuộc loan báo Tin Mừng cứu độ, Giáo Hội Công Giáo đã tổ chức Thượng Hội đồng Giám Mục thường kỳ lần thứ 13 nhân dịp kỷ niệm 50 năm Công Đồng chung Vaticanô II (1962-1965) và 20 năm soạn thảo bộ sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo. Vì thế các hoạt động năm nay của chúng ta hướng về chủ đề “Tân Phúc Âm Hoá để truyền bá đức tin” theo tinh thần thừa sai của Công đồng chung và của Thượng Hội đồng Giám mục này.
4. Bố cục các đề tài suy niệm
Để khai triển đề tài “Phương cách thích hợp nhất để loan báo Tin Mừng trong bối cảnh văn hoá Việt Nam chính là Tân Phúc Âm Hoá”, chúng tôi xin giới thiệu 6 điểm suy tư sau đây:
1. Bối cảnh của cuộc TPAH trên thế giới và ở Việt Nam
2. Người Kitô hữu hành động như thế nào trước những đổi thay trên thế giới và ở Việt Nam
3. Thời điểm cho cuộc Tân Phúc Âm Hoá
4. Tân Phúc Âm Hoá để truyền bá đức tin vì đức tin là cuộc gặp gỡ giữa con người với Đức Giêsu Kitô
5. Xác tín trọn vẹn vào Đức Giêsu Kitô
6. Ra khơi để Tân Phúc Âm Hoá
Những bài suy niệm trên đây nằm trong chuỗi đề tài mà chúng tôi muốn trình bày để mời gọi Kitô hữu ý thức về sứ mạng rao giảng Tin Mừng của mình và đổi mới phương cách hành động như Giáo Hội yêu cầu để công cuộc loan báo ở Tin Mừng ở Việt Nam mang lại nhiều kết quả tốt đẹp hơn.
Đây là một phần trong những đề tài chúng tôi chuẩn bị cho cuốn “Cẩm Nang Tân Phúc Âm Hoá”. Cẩm nang là túi gấm trong truyện cổ chứa lời khuyên bí ẩn khi gặp khó khăn lớn, mở ra sẽ thấy ngay lời giải đáp. Chúng tôi mơ ước cuốn sách này sẽ ghi được những điều hướng dẫn cần thiết để việc TPAH đạt được những kết quả mong muốn cho những ai đang dấn thân cho công cuộc loan báo Tin Mừng.
Chúng tôi hy vọng và cầu chúc anh chị em tìm thấy được cuốn cẩm nang đó, nhất là trong Năm Đức tin này, khi gặp gỡ và kết hợp với Chúa Giêsu Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa.
Bài 1
Bối cảnh của cuộc Tân Phúc Âm Hoá
trên thế giới và ở Việt Nam
Lời mở
Muốn Tân Phúc Âm Hoá (TPAH) con người chúng ta cần phải tìm hiểu người nghe Tin Mừng đang sống trong bối cảnh nào để Tin Mừng của chúng ta thật sự mang lại hiệu quả tốt đẹp. Họ có thể là người nghèo đói, tật bệnh, bị dằn vặt vì tội lỗi, bị kiềm chế bởi ma quỷ, ma men, ma túy. Chúa Giêsu sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng cứu độ và trao quyền năng cho chúng ta để chúng ta có thể giải thoát họ.
Vì thế, chúng ta sẽ tìm hiểu bối cảnh loan báo Tin Mừng của thế giới được mô tả trong Tài liệu Làm việc của Thượng Hội đồng Giám mục 2012 về Tân Phúc Âm hóa và so sánh với bối cảnh ở VN để thấy cần phải thực hiện cuộc Tân Phúc Âm Hoá như thế nào.
Một số anh chị em chúng ta có thể nghĩ rằng việc loan báo Tin Mừng trong một giáo xứ VN cần gì phải tìm hiểu bối cảnh thế giới, chuyện đó lớn lao quá! Tôi chỉ được sai đến một xứ đạo nhỏ bé với số ít người như vậy cần gì mà phải tìm hiểu xa vời! Thượng Hội đồng nhắc nhở chúng ta rằng công cuộc loan báo Tin Mừng là công việc chung của toàn thể Giáo Hội để truyền bá “một đức tin duy nhất, và hành vi tuyên xưng đức tin này phải là của cá nhân và cả tập thể, đầy tự do và ý thức, ở bên trong và bên ngoài, khiêm tốn và thẳng thắn” (TLLV, số 93). TPAH là việc chung của Giáo Hội nên chúng ta cần phải đồng cảm với Giáo Hội, đồng cảm với tất cả anh chị em chúng ta trên toàn thế giới.
“Sứ mệnh truyền giáo mà Giáo Hội nhận được từ Chúa Giêsu Phục Sinh: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15) đã mặc lấy những hình thức và những phương pháp mới theo dòng thời gian, tuỳ theo các nơi chốn và tình hình trong đó sứ mệnh ấy được thể hiện; và tuỳ theo những thời điểm khác nhau trong lịch sử”. Tuy nhiên, sứ mệnh ấy vẫn chỉ là một và đồng nhất như từ khởi đầu thời các thánh tông đồ và các môn đệ thời xưa vì cùng được Chúa Thánh Thần thúc đẩy và hướng dẫn, cùng một nội dung cần loan báo là chính Đức Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa” (TLLV, số 41).
Giáo Hội nói đến việc Tân Phúc Âm Hoá vì những nhóm người mà Giáo Hội đang sống với đã thay đổi triệt để vì nhiều lý do, những hoàn cảnh mới xuất hiện khác hẳn quá khứ khiến cho việc loan báo Tin Mừng cần phải được thể hiện một cách mới mẻ thì mới mong kết quả tốt đẹp. “Sứ mạng ấy hôm nay đang đứng trước những thay đổi về văn hoá-xã hội ảnh hưởng sâu xa tới nhận thức của con người về chính mình và về thế giới, và do đó, ảnh hưởng tới cách họ tin vào Thiên Chúa” (TLLV, số 6).
Vì thế, trong phần trình bày này, xin giới thiệu hai điểm chính, đó là: bối cảnh Tân Phúc Âm Hoá của thế giới và bối cảnh Tân Phúc Âm Hoá ở Việt Nam.
1. Bối cảnh Tân Phúc Âm Hoá của thế giới
Tài liệu Làm việc của Thượng Hội đồng trình bày rất nhiều về bối cảnh trong cuộc Tân Phúc Âm Hoá của thế giới, từ số 52-67, với những thay đổi về văn hoá-xã hội. “Tất cả những thay đổi ấy đang góp phần làm nhiều người lạc hướng, dẫn tới những hình thức mất tin tưởng vào tất cả những gì đã được truyền lại về ý nghĩa cuộc đời … gia tăng sự rời xa đức tin trong các xã hội và các nền văn hoá vốn thấm nhuần Tin Mừng suốt nhiều thế kỷ…Đó là một thực tế tại hầu hết các nước mà ở đó đức tin Kitô giáo đã góp phần xây dựng nền văn hoá và xã hội trong nhiều thế kỷ” (TLLV, số 7). Chúng ta sẽ lược qua rất nhanh một số những điểm cơ bản. Thượng hội đồng chia ra 7 lĩnh vực cơ bản:
1.1. Lĩnh vực văn hoá ( số 52-54)
Có thể nói thế giới ngày nay đã có hiện tượng gọi là tục hoá, chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống của mình một cách minh nhiên nhân danh việc giải phóng con người. Nếu anh em theo dõi trong lĩnh vực triết học và các phong trào xã hội ở các nước Tây Phương thì chúng ta biết rằng hiện tượng này bắt nguồn từ sau thế chiến thứ hai. Các nhà thần học Đức và một số nhà thần học Pháp trình bày cả một nền thần học về “cái chết của Thiên Chúa” xuất hiện sau hai cuộc thế chiến.
Người ta thấy trong thế chiến bao nhiêu con người bị chết, trong đó có rất nhiều thường dân vô tội. Người ta đặt câu hỏi: nếu mà Chúa đầy lòng thương xót và quyền năng thì Chúa phải ngăn cản không cho người ta giết hại nhau, tại sao Chúa lại để xảy ra những vụ sát hại như vậy? Hoặc là Chúa bất lực, hoặc là Chúa không có lòng thương xót!? Và rồi người ta đánh mất lòng tin vào TC để chỉ còn tin vào Đức Giêsu Kitô vì Người chính là hình ảnh cụ thể của quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chết trong Đức Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu chính là hình ảnh của con người vĩ đại, hay nói đúng hơn là của toàn thể nhân loại, vì Người đầy lời quyền năng và tình yêu vô vị lợi. Nhưng sau khi khám phá và áp dụng các phương pháp nghiên cứu văn học cho Tin Mừng, nhất là khoa văn hình sử, người ta muốn giải trừ mọi huyền thoại ra khỏi các bản văn Tin Mừng, không còn tin vào các lời Chúa Giêsu, chối bỏ các phép lạ và cuộc phục sinh của Người, Người chỉ còn là hình tượng mời gọi con người sống gắn bó yêu thương nhau trên bình diện hoàn toàn nhân loại mà thôi.
Những khuynh hướng triết học đã giải thích cho chúng ta biết điều đó nhân danh việc giải phóng con người, nhân danh tự do của con người. Các triết gia, tiểu thuyết gia như Jean-Paul Sartre, Simone de Beauvoir, Albert Camus, đại diện cho phái hiện sinh vô thần, đã lập luận rằng: nếu có Thiên Chúa thì con người không thể có tự do tuyệt đối, cho nên nhân danh tự do làm nên giá trị con người, con người cần phải gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống. Những phong trào triết học cũng như văn chương ấy đều nói lên cuộc đời vô nghĩa, phi lý trước những vấn nạn về đau khổ, cái chết… Trong tác phẩm Bãi Nôn (La nausée) của Jean-Paul Sartre, ông đã mô tả cuộc đời thật phi lý, học hành và làm việc chẳng có ý nghĩa gì, cứ sống thoả mãn cho giây phút hiện tại.
“Giọng điệu mềm mỏng của chủ nghĩa tục hoá tạo cho nó vẻ duyên dáng và quyến rũ, khiến nó dễ đi vào đời sống của các Kitô hữu và các cộng đồng Kitô giáo, và trở thành không chỉ là một mối đe dọa bên ngoài đối với các tín hữu, mà còn đi sâu vào cuộc sống hằng ngày… “Cái chết của Thiên Chúa” mà nhiều nhà trí thức thời trước tuyên bố bây giờ đã nhường chỗ cho một não trạng biếng nhác, khoái lạcvà hưởng thụ, dẫn đến một thái độ hết sức hời hợt trước sự sống và trách nhiệm. Trong tình hình này, đức tin có nguy cơ thực sự mất đi những yếu tố nền tảng của nó. Ảnh hưởng của tục hoá trong đời sống hằng ngày khiến cho người ta ngày càng trở nên khó khẳng định về sự hiện hữu của chân lý, loại bỏ câu hỏi về Thiên Chúa trong suy tư của con người về bản thân của mình” (TLLV, số 53).
1.2. Lĩnh vực xã hội (số 55)
“Sự di dân ồ ạt khiến hàng triệu người rời bỏ quê hương xứ sở của mình đến sống tại những đô thị, sự gặp gỡ pha trộn của các nền văn hoá dẫn đến sự xói mòn các điểm quy chiếu cơ bản của đời sống, các giá trị và chính các sợi dây ràng buộc giúp cho người ta xây dựng căn tính của mình và biết ý nghĩa của cuộc sống”. Sự tục hoá dễ dàng dẫn tới việc bỏ đạo.
1.3. Lĩnh vực kinh tế (số 56)
Hiện tượng bất bình đẳng giữa các nước giàu và nghèo, người ta không chịu san sẻ cho nhau, dùng những thế mạnh của kinh tế để chèn ép nước nghèo, người nghèo . Ở Mỹ hàng trăm ngàn tấn lương thực đã đổ xuống biển để bảo vệ giá nông sản và tất cả các thức ăn thừa bỏ đi đủ để nuôi sống toàn Châu Phi.
Các cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ đã làm cho đời sống con người hết sức bấp bênh. Đồng tiền bị mất giá liên tục khiến người ta không còn thấy sự bảo đảm cho tương lai.
1.4. Lĩnh vực dân sự (số 57)
Những thay đổi trong lĩnh vực này có thể nói là chấn động. Tình trạng thế giới phương Tây chia thành 2 khối Tư bản và Cộng sản đã kết thúc với sụp đổ của ý thức hệ Cộng sản, tại một số nước châu Âu, người ta được hưởng tự do tôn giáo và có thể tái tổ chức các giáo hội. Xuất hiện các thế lực mới về kinh tế, chính trị, tôn giáo từ thế giới Hồi giáo và Châu Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ) tạo nên tình hình mới mẻ và bất ngờ, tiềm ẩn những nguy cơ xung đột về quyền lực, kinh tế và chính trị. Lực lượng Hồi giáo hiện nay có hơn 1,5 tỉ người. Trung Quốc bành trướng thế lực sang cả Châu Âu, mua nhiều ngân hàng, công ty, bến cảng ở Âu Châu, những vùng đất rộng lớn ở châu Phi, công khai công bố đường lưỡi bò ở biển Đông để lấn chiếm vùng biển ở châu Á tạo nên căng thẳng, bất an.
1.5. Lĩnh vực khoa học công nghệ
Con người ta hưởng dùng lợi ích từ các khoa học kỹ thuật nhưng chúng lại trở thành những loại thần tượng của tôn giáo mới lôi cuốn con người, bắt con người làm nô lệ cho chúng.
1.6. Lĩnh vực truyền thông (số 59-62)
Việc sử dụng internet, sách báo, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình… ảnh hưởng rất lớn đến con người ở một số nước đang phát triển. Sự nối kết trong lĩnh vực này ảnh hưởng đến Giáo hội, văn hoá và làm thay đổi cả trải nghiệm của con người. Người ta có thể ngồi một chỗ và liên lạc với toàn thế giới nên chúng ta cần hiểu biết và sử dụng các phương tiện này một cách khôn ngoan và hiệu quả.
1.7. Lĩnh vực tôn giáo (số 63-67)
Sự phục hưng đáng kể về tôn giáo và những nhu cầu về một linh đạo trong nhiều nền văn hoá đặc biệt là giới trẻ. Nhiều sự lạm dụng về tôn giáo, người ta lợi dụng tôn giáo để thôi thúc tinh thần ái quốc. Sự xung đột tôn giáo ở Pakistan, Châu Phi, châu Á hiện nay. Trên thế gới có hơn 4.000 tôn giáo lớn nhỏ hiện nay. Nhiều tôn giáo mới lập được quan tâm và nhiều người theo vì các thành viên tham gia được chú ý, săn sóc trong khi người tín đồ của các tôn giáo lớn lại cảm thấy mình xa lạ, lạc lõng trong cộng đồng mình sống.
2. Bối cảnh Tân Phúc Âm Hoá ở Việt Nam
2.1. Lĩnh vực văn hoá
Hiện tượng tục hoá ở Việt Nam nặng nề hơn vì sau 2 cuộc Thế chiến, thế giới chia thành 2 phe đối kháng nhau: Tư bản và Cộng sản, và Việt Nam lại nằm trong vòng xoáy đó, miền Bắc theo ý thức hệ Cộng sản, miền Nam theo Tư bản và chiến tranh đã xảy ra. Năm 1954, cả miền Bắc đi theo ý thức hệ vô thần, duy vật nên một cách minh nhiên muốn xoá bỏ những ý thức về sự tồn tại của Thiên Chúa ra khỏi đời sống con người. Miền Nam theo tư bản nên có tự do tôn giáo nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ duy vật thực hành và tục hoá. Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, toàn xã hội được hướng dẫn theo ý thức hệ Cộng sản, hiện tượng tục hoá ngày càng nặng nề hơn. Vì thế, những người dưới 40 tuổi hiện nay, cùng được giáo dục trong các trường lớp của xã hội VN nên bị ảnh hưởng nặng nề của ý thức hệ duy vật, vô thần: họ có ý loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống, suy nghĩ và cả hành động của họ. Do đó ta thấy tình trạng sa sút về đạo đức, luân lý lên tới mức báo động qua tin tức trong các sách báo, truyền thanh, truyền hình mỗi ngày.
2.2. Lĩnh vực xã hội
Hiện tượng di dân ở Việt Nam rất đáng quan tâm: hơn 8 triệu người phải rời xa gia đình hoặc cả gia đình phải di chuyển đến nơi khác để học hành, làm việc, nhất là đến các đô thị hay thành phố lớn. Hiện tượng đánh mất mình trong đám đông của người di dân.
Sự pha trộn văn hoá phương Tây và Á đông qua các phim ảnh có nguy cơ tạo nên một lối sống dễ dàng, hưởng thụ vật chất. Nhà nước ít quan tâm đến văn hoá của các dân tộc thiểu số.
Về vấn đề gia đình có tới 31%-41% trong tình trạng li dị kể cả những người Công giáo.
Hiện tượng toàn cầu hoá ở Việt Nam, các bạn trẻ để tóc hightlight, ăn mặc theo kiểu Hàn quốc.
Ý thức bảo vệ môi trường ở Việt Nam rất là kém, nguồn nước ô nhiễm, không khí bụi bẩn khiến sức khỏe kém, bệnh tật nhiều.
2.3. Lĩnh vực kinh tế
Số người sống trong tình trạng nghèo khổ cùng cực ở VN là 16 triệu. Nhiều công ty, xí nghiệp bị phá sản, nhất là 2 năm gần đây. Tỷ lệ người dân nông thôn lên thành thị làm việc và bị cuốn theo vòng xoáy tiền bạc dẫn đến sa đọa cao; các quán cà phê, bia ôm, massage nhan nhản khắp nơi. Nạn buôn gian bán dối, bán hàng độc hại, nông sản chứa dư lượng thuốc trừ sâu hầu như ở khắp nơi, ngay cả trong các cộng đồng có nhiều người Công giáo. Nạn lấy chồng nước ngoài gia tăng trong một số địa phương do hiều biết kém và ước muốn làm giàu bằng bất cứ cách nào. Chúng ta cần phải loan báo Tin Mừng cứu độ như thế nào cho những người nghèo khổ đó?
2.4. Lĩnh vực dân sự
Ở VN nạn tham nhũng tràn lan, các quyền lợi con người bị xâm phạm. Về vấn đề bào vệ sự sống đáng báo động vì VN đứng thứ 5 trên thế giới về số ca phá thai, các nhà xã hội ước chừng 2 triệu ca, bộ Y tế VN dự đoán 300.000 ca hằng năm (Báo Sài Gòn Tiếp Thị, ngày 12-7-2013). 30% phụ nữ phá thai rơi vào tình trạng trầm cảm không được cứu chữa. Chúng ta loan báo Tin Mừng cho họ như thế nào? 26 triệu người uống rượu, vài triệu người nghiện rượu, đánh đập vợ con, gây bất an nơi gia đình. Chúng ta làm gì để giúp đỡ họ? 33 triệu người hút thuốc lá, chất nicôtin ảnh hưởng đến bộ phận sinh sản và con cái họ bị ngu đần. 200.000 người nghiện ma túy. 300.000 người nhiễm HIV. Tai nạn giao thông ở mức độ rất cao, hàng chục ngàn người bị thiệt mạng hằng năm.VN có 6 triệu 700 ngàn người khuyết tật về thể lý, 10 triệu người khuyết tật về tinh thần. Chúng ta loan Tin Mừng cứu độ cho những người này như thế nào?
2.5. Lĩnh vực khoa học công nghệ
VN là nước đang phát triển, áp dụng kỹ thuật từ nước ngoài. Lòng yêu chuộng khoa học thực nghiệm thôi thúc các bạn trẻ, các thanh thiếu niên áp dụng phương pháp kỹ thuật vào đời sống nhưng càng ngày họ càng lệ thuộc vào chúng. Ta phải loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô như thế nào trong lĩnh vực này?
2.6. Lĩnh vực truyền thông
41 triệu người truy cập internet thường chỉ để giải trí xem tin tức hơn là nghiên cứu, học hành, làm việc. VN đứng đầu thế giới về truy cập phim sex với 5 triệu người xem hằng đêm, 10 triệu người chơi game online mỗi ngày, bỏ cả học hành làm việc, chúng ta làm gì để giải thoát họ khỏi những cơn nghiện này? Truyền thông lại thiếu trung thực, những tin tức được định hướng theo chính quyền hay bởi những ông chủ truyền thông chứ chứa phản ánh trung thực sự thật. Giáo hội VN cũng chưa biết lợi dụng phương tiện truyền thông để loan báo Tin Mừng. Số trang web của Giáo hội và nội dung thông tin còn nghèo nàn, chưa thu hút được chính người tín hữu còn nói chi đến người ngoài.
2.7. Lĩnh vực tôn giáo
Công giáo chiếm 7% dân số , 2% Tin lành, 10% Phật giáo, khoảng 5% thuộc các tôn giáo khác như Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo, Bah’ai, Hồi giáo. 5% tuyên bố vô thần, không theo một tôn giáo nào. Như thế hơn 60% dân số Việt Nam còn lại, trong đó đa số vẫn còn tin vào Ông Trời, vào Đấng Tối Cao, cho mình là theo đạo ông bà tổ tiên. Đây là đối tượng đáng quan tâm để rao giảng Tin Mừng, Giáo hội Công giáo có chiến lược TPAH gì cho những người này?
Kết luận
Khi đặt mình trong bối cảnh của thế giới và của VN cho cuộc TPAH chúng ta cảm thấy mình sứ mệnh thừa sai thôi thúc chúng ta vì “mọi người có quyền được nghe Tin Mừng của Thiên Chúa cho loài người, Tin Mừng này là chính Đức Giêsu Kitô… Nhân loại ngày nay cần được nghe những lời của Đức Giêsu” (TLLV, số 33). Chúng ta phải cảm nhận được công việc rao giảng Tin Mừng là một bổn phận cần phải chu toàn trong hoàn cảnh cấp bách hiện nay như Thánh Phaolô: “Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là 1 lý do để tự hào, mà đó là 1 sự cần thiết, bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16) (TLLV, số 33)..
Bài 2
Người Kitô hữu hành động như thế nào
trước những thay đổi trên thế giới và ở Việt Nam
Lời mở
Chúng ta đã tìm hiểu bối cảnh của thế giới và VN trong cuộc TPAH và được mời gọi “tìm cách khám phá ra những lý do cơ bản tại sao các hoạt động và chứng tá của nhiều tổ chức GH thiếu tính khả tín khi rao giảng với tư cách những người mang Tin Mừng của Thiên Chúa” (TLLV, số 32). Trong phạm vi bài này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu người Kitô hữu hành động như thế nào trước những thay đổi trên thế giới và ở Việt Nam để khám phá ra lý do tại sao hoạt động rao giảng Tin Mừng thiếu hiệu quả.
1. Hành động của người tín hữu Công giáo trên thế giới
Có thể nói rằng đứng trước bối cảnh những đổi thay trong nhiều lĩnh vực, “nhiều cộng đồng Kitô giáo đã không nhận thức đầy đủ sự thách thức cũng như mức độ lớn lao của cuộc khủng hoảng gây ra bởi môi trường văn hoá bên ngoài cũng như ngay cả bên trong Giáo Hội” (TLLV, số 49).
Họ vẫn tiếp tục sống hết sức bình thường, cũng nói đến truyền giáo, loan báo Tin Mừng. Nhưng, với cách sống và rao giảng TM quen làm như hiện nay bằng những giờ kinh phụng vụ, thánh lễ, đón nhận các bí tích, học hỏi Thánh Kinh, dạy giáo lý với các bài quen thuộc, thỉnh thoảng làm một số công tác xã hội như khám bệnh, phát thuốc, phát quà cho người nghèo, người tàn tật, thăm viếng một ít cơ sở tôn giáo bạn như đền chùa, thánh thất, hoặc giao lưu với các anh em Tin Lành thì hiệu quả ruyền giáo sẽ không mấy thay đổi như đang tồn tại cả trăm năm nay.
1.1. Những điểm tiêu cực
Thượng Hội đồng cảnh báo rằng: đối mặt với những thay đổi đó, người Kitô hữu rất thụ động. Hậu quả là từ thái độ thụ động của Kitô hữu: “chúng ta thấy có sự suy yếu đức tin trong các cộng đồng tín hữu, sự giảm sút lòng kính trọng đối với thẩm quyền của huấn quyền, sự tuỳ thuộc vào Giáo hội mang tính chất cá nhân chủ nghĩa, sự suy thoái trong việc thực hành tôn giáo và sự hờ hững trong việc truyền thông đức tin cho các thế hệ mới”(TLLV, số 48).
Chúng ta không lạ lùng gì, cả thế giới chứ không riêng gì Việt Nam, số người tín hữu càng ngày càng giảm sút. Cách đây 50 năm, tỷ lệ người Công giáo so với dân số thế giới là 18,2 %, hiện nay tỷ lệ này là 17,5 %. Theo Thống kê, vào năm 2010, Giáo hội Công giáo (GHCG) có 1.195.671.000 tín hữu trên tổng số 6.848550.000 người trên thế giới. GHCG hiện có 207 hồng y, 12 thượng phụ,1.039 tổng giám mục, 3.855 giám mục, 412.236 linh mục trong đó có 277.009 lm. triều và 135.227 lm. dòng, 39.564 phó tế vĩnh viễn, 54.665 tu sĩ nam, 721.935 tu sĩ nữ, 118.990 đại chủng sinh, 335.502 thừa sai giáo dân, 3.160.628 giáo lý viên, trong khi số người lớn (trên 7 tuổi) được rửa tội cả năm là 2.666.953. Trung bình cứ 2 người tín hữu ưu tuyển, tạm kể là các giám mục, linh mục, phó tế, đại chủng sinh, tu sĩ, thừa sai giáo dân, giáo lý viên là những người có ý thức trách nhiệm truyền giáo, mới thu hút được 1 người theo đạo mỗi năm. Vậy những người khác làm gì? (x. Catholic Almanac 2013, tr. 335, NXB Our Sunday Visitor’s, 2012).
Giáo Hội thấy cần phải thay đổi: vì người ta thấy rằng “có sự sa sút của nhiều Kitô hữu trong đời sống đạo và có thể nói đây là sự bội giáo âm thầm đưa Hội Thánh tới chỗ không còn khả năng đáp ứng một cách thuyết phục và thoả đáng trước những thách thức được mô tả trong các lĩnh vực”(TLLV, số 48).
Các bản góp ý về thượng hội đồng đã nói đến:
– “Tình trạng suy yếu đức tin của các Kitô hữu: sự thiếu dấn thân cá nhân và thiếu kinh nghiệm trong việc truyền bá đức tin, không có đủ sự hướng dẫn thiêng liêng cho giáo dân trong tiến trình đào luyện của họ về tri thức nghề nghiệp” (TLLV, số 69).
– “Cơ cấu Giáo Hội tỏ ra quá quan liêu: có một khoảng cách quá lớn giữa người bình thường và các quan tâm hằng ngày của họ khiến cho năng lực của các cộng đồng Giáo Hội bị suy giảm, mất đi sự phấn khởi từ cơ sở và suy thoái của nhiệt tình truyền giáo” (TLLV, số 69).
– “Tính quá hình thức của các cử hành phụng vụ, hầu như chỉ là những hình thức theo thói quen và thiếu trải nghiệm thiêng liêng sâu xa, làm cho dân xa lánh thay vì lôi cuốn họ” (TLLV, số 69). Nhìn vào các buổi cử hành phụng vụ hiện nay, chúng ta thấy những điều mà THĐ cảnh báo. Nhiều linh mục dâng lễ nhưng thiếu tâm tình, nhiều khi mang cả những sự bực bội vào trong thánh lễ. Nhiều người không cảm nghiệm được sự sống động của mỗi thánh lễ mình dâng.
Nhiều cộng đoàn tu sĩ quên đi tính cách cộng đồng của toàn thể Giáo Hội trong thánh lễ với lời chào “Chúa ở cùng anh chị em” để chỉ còn giữ “anh” hay “chị” cho cộng đồng đóng kín của mình. Khi chúng ta công bố Tin Mừng trong thánh lễ, đâu phải chỉ loan báo cho người đang sống, mà còn cho cả những người đã khuất. Bao nhiêu linh hồn người đã khuất, các thần thánh trên trời lắng nghe Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô để được giải thoát. Khi ta nói lời cầu chúc: “Anh chị em ra về bình an”, biết bao nhiêu linh hồn chờ sự bình an của chúng ta. Vì thế, qua lời chúc và những lời cầu nguyện của chúng ta, cả một cộng đồng các thánh đang cùng hiện diện với chúng ta trong thánh lễ là 1 thực tại rất có ý nghĩa. Nếu mỗi thánh lễ chúng ta cảm nghiệm được như vậy ta mới làm cho những người tham dự thấy rằng thánh lễ ngày hôm nay khác với thánh lễ ngày hôm qua vì hôm nay tôi dâng cho Chúa những công việc mới, những ưu tư mới, dự tính mới và điều đó làm cho thánh lễ thêm sống động.
– “Sự phản chứng của một số phần tử của Hội Thánh: bất trung với ơn gọi, gương mù, ít nhạy cảm với những vấn đề của con người ở thế giới hôm nay” (TLLV, số 69). Chúng ta đều là con người yếu đuối, có những lúc chúng ta sa ngã, nên chúng ta cần khiêm tốn hơn để thú nhận tội lỗi của mình, khoan dung với tội nhân và cố gắng hành động tích cực để sửa đổi. Đó cũng là hành động rao giảng TM tha thứ của Chúa Giêsu Kitô. Đức Giêsu đến với chúng ta không phải là vì chúng ta là những người khoẻ mạnh thánh thiện, Người cứu vớt chúng ta bởi vì chúng ta yếu đuối và tội lỗi. Cảm nghiệm được như vậy, lúc bấy giờ chúng ta mới trung thành với Chúa Giêsu, trung thành trong sứ mạng thừa sai của mình.
– “Mầu nhiệm sự dữ” (TLLV, số 69): cuộc chiến phản Kitô – gồm các thiên thần sa ngã cộng tác với thế gian để chống lại Đức Giêsu Kitô. Dĩ nhiên ma quỷ không phải lúc nào cũng hiện lên với hình ảnh đen đủi, xấu xa để chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của chúng mà trừ khử nên có nhiều người đang muốn chối bỏ sự hiện diện của chúng, nhất là trong thời đại khoa học, kỹ thuật hiện nay. Chúng hiện diện với muôn vàn hình thức hấp dẫn: ma men, ma tuý, ma lực của tham vọng, dục vọng ,danh vọng, tiền bạc… Sự thiếu nhận thức về bối cảnh của thế giới cũng như tình trạng sa sút đức tin trong lòng Giáo Hội đã khiến cho nhiều người không còn cảm nhận được nguy cơ này.
1.2. Những điểm tích cực
Nếu xét về mặt tích cực thì nhiều cộng đồng trong Giáo Hội đã ý thức phần nào về bối cảnh nên đã có hành động tốt và lợi dụng được sự thay đổi đó, chúng ta có thể nhắc lại một ít điểm tốt đẹp sau đây.
– Vấn đề di dân (TLLV,số 70). Sự pha trộn nền văn hoá của những người phải di dân đến từ những vùng xa lạ: có người muốn ẩn trong nền văn hoá của đô thị và đánh mất những giá trị truyền thống của tổ tiên; nhưng cũng có những thành phần tích cực lại đưa những giá trị tốt đẹp vào trong vùng đất mới. Ví dụ: một số người Việt sang Mỹ hoặc một số nước khác đã lập nên giáo xứ và tổ chức các hình thức sống đạo như ở Việt Nam, làm khơi dậy đời sống đức tin của dân tộc bản địa qua cách chúng ta dự lễ, rước lễ, sống tinh thần bác ái, chia sẻ cho nhau (x.TLLV, số 70).
– Về lĩnh vực kinh tế quả thật có sự phân cách đối với người giàu và nghèo, nhưng một số cộng đồng, dù gặp khủng khoảng kinh tế hay và khó khăn, nhưng lại gia tăng hoạt động liên kết, chia sẻ cho những người nghèo khó, tận tuỵ và liên đới với người nghèo qua công việc bác ái cũng như nếp sống giản dị theo tinh thần nghèo khó của Đức Giêsu Kitô. Trong thế giới đề cao sự tiêu thụ và sắc dục như hiện nay, thái độ này là động lực để loan báo Tin Mừng và làm chứng cho tình yêu (x.TLLV, số 71).
-Đối thoại đại kết giữa những anh em trong Kitô giáo: trong những cộng đồng ở Tây Phương, có sự liên kết và cộng tác với nhau giữa Công giáo và Tin Lành (ở Đức có nhà thờ có hai đầu, một đầu là Công giáo, một đầu là Tin Lành, giữa là cộng đồng. Ở VN thì chưa có sự liên kết chặt chẽ như thế) (x.TLLV, số 72).
– Đối thoại liên tôn của một số cộng đồng khi sống chung với các tôn giáo khác.
– Những nơi Giáo Hội chiếm thiểu số có thể gặp nhiều thiệt thòi và giới hạn như ở một số nước Nam Á và Đông Nam Á như Malaysia, Indonesia, Philippines, thậm chí bị bách hại. Chính trong những cuộc bách hại đó, người Công giáo hiểu được những giá trị của Tin Mừng và họ làm chứng cho Giáo Hội một cách anh hùng hơn là những người ở trong nước tự do (x.TLLV, số 74).
Mối ràng buộc giữa loan báo Tin Mừng và thập giá luôn luôn là mối liên kết chặt chẽ, nếu chúng ta tự nguyện trở thành người loan báo Tin Mừng, chúng ta không thể nào lui bước với những thập giá hằng ngày, thậm chí cả đời, của chúng ta. Chúng ta đừng lạ lùng gì khi bị những lời chửi bới, công kích, thư nặc danh, thái độ khinh thường… của người khác đối với mình.
2. Người Kitô hữu hành động như thế nào trước những đổi thay của Việt Nam
Hầu hết những điểm tiêu cực và tích cực được Thượng Hội đồng Giám Mục vừa nhắc đến đều thấy có trong xã hội VN ở nhiều mức độ nặng nhẹ khác nhau vì người dân VN mới trải qua cuộc chiến tranh do khác biệt về ý thức hệ từ năm 1945-1975 rồi đang sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) và theo ý thức hệ Cộng Sản từ năm 1975 đến nay.
2.1. Thực tế và hoàn cảnh lịch sử
Sau gần 11 thế kỷ bị người Trung Quốc đô hộ từ năm 111 trước Công nguyên đến năm 938 sau Công nguyên, bản sắc của người VN có nhiều điểm tốt như cần cù, chịu khó, nhẫn nại, biết chia sẻ cho người gặp hoạn nạn,thông minh, sống tiết kiệm, nhưng cũng có nhiều điểm cần sửa đổi như sống hời hợt, hình thức bên ngoài và giấu ẩn những hận thù muốn giết hại bên trong, nghi ngờ, sợ hãi trước người lạ, chỉ tỏ vẻ cần cù làm việc khi có người giám sát, thiếu đoàn kết, không tôn trọng của chung, ít bền lòng làm việc cho đến nơi đến chốn. Những điểm tiêu cực này đáng lý ra có thể được sửa đổi nhờ gương sáng và lời dạy của Tin Mừng nhưng chưa thấy Giáo Hội quan tâm.
Lòng tin có từ ngàn năm qua vào Đấng linh thiêng mà dân chúng quen gọi là Ông Trời, Chúa Trời như “Trời cao có mắt”, “Lưới trời lồng lộng”, “Thiên bất dung gian” trong vài chục năm gần đây đã bị những ý thức hệ vô thần phá đổ qua những bài học chống phá tôn giáo, tín ngưỡng, thật sự đã gây nên những hậu quả nghiêm trọng trong cách sống của người dân về lĩnh vực đạo đức luân lý. Ngay cả các tín đồ của các tôn giáo, do được giáo dục trong các trường học của xã hội, cũng đã suy giảm lòng tin, thậm chí đánh mất đức tin để sống theo chủ nghĩa cá nhân hưởng thụ tìm lợi cho mình và bất công bất chính đối với người khác.
Những cuộc cử hành phục vụ của đồng bào Công giáo, nhất là Thánh lễ, tuy có rất đông người tham dự, nhưng người tín hữu vẫn cảm thấy nặng nề về hình thức, thiếu trải nghiệm thiêng liêng sâu xa và không đưa được tinh thần đạo đức vào trong đời sống thường ngày cũng như trong xã hội. Vì thế đạo Công giáo vẫn chưa lôi cuốn mạnh mẽ những người ngoài Công giáo. Hầu hết những người muốn theo đạo học trong các lớp giáo lý tân tòng là những người muốn lập gia đình với người Công giáo.
Một số anh em linh mục còn không tin có ma quỷ và cho đó là chuyện hoang đường nên không nghĩ mình cần phải giải thoát con người khỏi quyền lực trói buộc của quỷ ma. Thực ra những tài liệu mới của Giáo Hội về điểm này trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo hay trong cuốn Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo có lẽ còn quá mới mẻ đối với linh mục, còn nói chi đến giáo dân! Trong khi đó, quần chúng bình dân lại rất tin vào bùa chú, ma thuật và những trò bịp bợm mê tín. Câu chuyện và những cảm nghiệm của nhiều nhà ngoại cảm như chị Phan Thị Bích Hằng được các phương tiện truyền thông phổ biến đang cần lời giải thích và hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền của GHVN thì chúng ta lại chỉ nhận được sự im lặng khó hiểu. Nhiều ủy ban của Hội đồng Giám mục VN vẫn chỉ có những hoạt động cầm chừng vì những sự e ngại nhiều mặt đúng như những nhận định của Thượng Hội Đồng Giám mục 2012.
2.2. Vài số thống kê
Giáo Hội VN, tính đến ngày 31/12/2012 có 4.441 linh mục, 4.195 chủng sinh, 2.679 tu sĩ nam, 17.280 tu sĩ nữ. Tuy nhiên con số đông đúc người tận hiến cho Đức Kitô vì Nước Trời này hình như vẫn chưa đủ sức thu hút những người ngoài Công giáo tin vào Đức Kitô do thái độ quan liêu, xa cách và thiếu quan tâm của nhiều người đối với cộng đồng xã hội. Những hoạt động xã hội, bác ái từ thiện của những cơ sở tôn giáo mà họ cai quản như các trường học trường mẫu giáo, nhà trẻ, nhà nuôi dưỡng người già khuyết tật vẫn thiếu một cái gì đó của chính Đức Kitô khiến cho những người thụ hưởng không cảm nghiệm được sự hiện diện sống động của Người.
Ngoài ra, GHVN hiện có 59.524 giáo lý viên, gần 1 triệu đoàn viên các hội đoàn Công giáo Tiến hành và 6.560.879 tín hữu giáo dân (x. Thống kê của Văn phòng Tổng Thư ký HĐGMVN), nhưng số người lớn theo đạo Công giáo hằng năm trong những năm gần đây chỉ có khoảng 30- 40.000. Trong khi số người bỏ đạo cũng gần bằng số người theo đạo nên tỷ lệ người Công giáo không tăng trong suốt 127 năm qua tính từ năm 1885 đến nay. Con số tăng hằng năm người Công giáo có tính cách cơ học theo sự tăng trưởng tự nhiên của dân số. Nhiều vì lãnh đạo trong Giáo hội Công giáo không mấy quan tâm đến điểm này, dù nhiều nơi vẫn hô hào loan báo Tin Mừng hằng năm và tổ chức những hình thức cổ vũ ơn gọi và hoạt động truyền giáo. Thật ra những sinh hoạt của các hội đoàn Công giáo tiến hành và các bài học của các lớp giáo lý hiện nay cần phải đổi mới từ nội dung đến hình thức thì mới có sức thu hút người khác theo Chúa.
Theo số liệu mới nhất của Văn phòng Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam, tính đến ngày 31-12-2012, số người lớn được rửa tội năm 2012 là 42.422 người, trong khoảng 10 năm gần đây, hằng năm khoảng 30.000 đến 40.000 người lớn theo đạo Công giáo, nhưng hầu hết là để lập gia đình với người có đạo. Vậy chúng ta tự hỏi ai là người đi loan báo Tin Mừng Đức Giêsu Kitô và truyền giáo có kết quả?
Một thí dụ minh hoạ: năm 2010, giáo phận Huế có 2 giám mục, 140 linh mục, 74 chủng sinh, 108 tu sĩ nam, 588 tu sĩ nữ, 755 giáo lý viên và 68.910 tín hữu, nhưng cả năm 2010 chỉ có 66 người lớn được Rửa tội, năm 2009 có 94 người, năm 2008 có 106 người (x. Thống kê Văn phòng Tổng Thư ký HĐGM VN), còn năm 2012 chỉ có 60 người. Chúng tôi đưa thí dụ này không có ý chê trách hay xem thường hoạt động truyền giáo của người tín hữu Huế vì mỗi hoạt động truyền giáo của ta đều được Chúa ghi nhận và ban thưởng dù nó có vẻ không mang lại hiệu quả bên ngoài. Từ sự kiện này chúng tôi muốn lưu ý rằng những đại hội hành hương lớn lao ở LaVang hay ở bất cứ đâu không luôn luôn đi đôi với kết quả truyền giáo. Hằng trăm ngàn người đổ về La Vang hằng năm vẫn không thu hút được người ở Huế theo đạo.
Dù những con số không nói lên hoàn toàn sức sống năng động của người Công giáo nhưng việc giảm sút số người tin theo Đức Kitô có thể đã nói lên phần nào công cuộc truyền giáo toàn cầu cũng như ở Việt Nam không mấy thành công.
Lời kết
Tìm hiểu thái độ và hành động của người tín hữu chúng ta trước những đổi thay của thế giới và của Việt Nam chúng ta nhận ra rằng mình chưa loan báo TM với tư cách là người thừa sai của Thiên Chúa và của Đức Giêsu Kitô. Chúng ta có thể chưa đi loan báo Tin Mừng với tình yêu, quyền năng và ân phúc Chúa ban cho ta như một chứng nhân sống động của Tin Mừng để chữa lành bệnh tật, tha thứ tội lỗi, xua trừ ma quỷ để giải thoát con người (x. TLLV, số 29). Giáo Hội đang mời gọi chúng ta thay đổi bằng cuộc Tân Phúc Âm Hoá và can đảm ra khơi thì mới hy vọng chinh phục nhiều người cho Chúa.
Bài 3
Thời điểm cho một cuộc Tân Phúc Âm Hoá
Lời mở
Giáo Hội Công giáo, khi dự tính mở Thượng Hội đồng Giám mục với đề tài “Tân Phúc Âm Hoá để truyền bá đức tin”, trước tiên chỉ nhằm tái rao giảng Tin Mừng cho các nước châu Âu đã bỏ đức tin Kitô giáo. Nhưng rồi dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội càng ngày càng khám phá ra nội dung xâu xa và phong phú của việc Tân Phúc Âm Hoá để đổi mới chính mình. Khi đối mặt với những đổi thay nhanh chóng của thế giới, Giáo Hội đã tìm ra câu trả lời hay giải pháp cho các vấn đề. Giải pháp đó là Tân Phúc Âm Hoá. “Khởi đầu Giáo Hội chỉ thấy Tân Phúc Âm Hoá là một nhu cầu, rồi như một hoạt động phân định và sau cùng như một động lực thúc đẩy Giáo Hội hôm nay” (x. TLLV, số 44). Nội dung bao hàm trong từ này dần dần sáng tỏ.
Trong phạm vi bài này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu Tân Phúc Âm Hoá là gì, bao gồm nội dung nào, cuối cùng cảm nghiệm được rằng TPAH là quay trở lại gặp gỡ Đức Kitô và xuất phát từ Người để ra khơi chinh phục con người cũng như vạn vật cho Chúa.
1. Tân Phúc Âm Hoá là gì?
1.1. Phân biệt từ ngữ
Trước hết chúng ta nên phân biệt đôi chút về từ ngữ để sử dụng chính xác. Chúng ta có nhiều từ liên quan đến Tin Mừng (TM) hay Phúc Âm như “Tin Vui”, “Tin Lành” hoặc liên quan đến công việc như “loan báo Tin Mừng”, “rao giảng TM”, “công bố TM”. Từ Tin Mừng hay Phúc Âm có nguyên ngữ Hy Lạp “evangelion” rồi chuyển sang từ Latinh “evangelium” được người tín hữu Kitô hiểu là những lời của Chúa Giêsu loan báo về Nước Trời, về tình yêu cứu độ của TC dành cho con người nên là những lời mang lại niềm vui và hạnh phúc. Sau đó còn được hiểu rộng ra là tất cả những gì ghi lại những lời dạy và hành động của Chúa Giêsu, cụ thể là 4 sách Tin Mừng hay 4 Phúc Âm. Cuối cùng, qua những suy tư Thánh Kinh và thần học, Tin Mừng bao gồm một nội dung phong phú mà trước hết và trên hết là chính Đức Giêsu Kitô vì Người là Tin Mừng của Thiên Chúa như Tài liệu Làm việc của Thượng Hội đồng Giám mục 2012 nhắc đi nhắc lại nhiều lần ở các số 18, 19, 20, 21, 26, 33, 169.
Bản Đề cương của THĐGM 2012 nhắc nhở chúng ta rõ ràng: “Khi nói đến Tin Mừng, chúng ta không được chỉ nghĩ về nó như là một cuốn sách hay một tập hợp các lời giáo huấn. Tin Mừng là một cái gì nhiều hơn nữa; nó là một Lời sống động và linh nghiệm, nói điều gì thì điều đó trở thành hiện thực. Tin Mừng không chỉ là một hệ thống các điều khoản đức tin và giới răn đạo đức, càng không phải là một chương trình chính trị, mà là một con người: Đức Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa đã làm người. Tin Mừng là Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, Tin Mừng không chỉ lấy Đức Giêsu Kitô làm nội dung, nhưng hơn thế nữa, nhờ Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu Kitô cũng là người cổ vũ và là tâm điểm của việc rao giảng và truyền bá Tin Mừng. Do đó, mục tiêu của việc truyền bá đức tin là thể hiện một cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Giêsu Kitô, trong Thánh Thần, nhờ đó dẫn đưa chúng ta tới một trải nghiệm về Cha của Người và Cha của chúng ta” (Đề Cương THĐGM 2012, số 11).
“Đức tin Kitô giáo không chỉ là những giáo huấn, những lời khôn ngoan, một bộ luật luân lý hay một truyền thống. Đức tin Kitô giáo là một cuộc gặp gỡ và quan hệ đích thực với ĐGK” (TLLV, số 18).
1.2. Tiến trình đi tìm định nghĩa cho Tân Phúc Âm Hoá
Khởi đầu, người ta hiểu “Tân Phúc Âm Hoá như là một cách thức mới để loan báo TM , đặc biệt cho những người đang sống trong tình hình hiện nay, vốn bị ảnh hưởng bởi trào lưu tục hoá ngày càng gia tăng và diễn ra ở mức độ nghiêm trọng tại các nước vốn có truyền thống Kitô giáo lâu đời” (TLLV, số 44, 85). Tân Phúc Âm Hoá đồng nghĩa với từ tái Phúc Âm hoá hay tái rao giảng TM trước nhu cầu đối với người Kitô hữu đã bỏ Chúa Kitô, cụ thể là ở những nước Tây Phương. Tin Mừng trong nghĩa này vẫn được hiểu là sứ điệp hay giáo lý của Chúa Giêsu Kitô.
Nhưng rồi qua những chuẩn bị cũng như đóng góp ý kiến của các Giáo Hội địa phương, người ta thấy rằng việc Tân Phúc Âm Hoá bây giờ trở thành một việc phân định, tức là mỗi Giáo Hội địa phương nhìn lại cuộc sống của mình, cố gắng đọc và hiểu rõ những lĩnh vực mới xuất hiện để đối phó với bối cảnh mà họ đang phải đối mặt, đụng chạm với những thách thức mà thế giới và xã hội đặt ra cho Giáo Hội của mình (x. TLLV, số 51).
“TPAH bây giờ không phải là Tái Phúc Âm hoá (TLLV, số 45), nhưng là một cuộc Phúc Âm hoá mới: mới về nhiệt huyết, phương pháp và cách biểu hiện của nó (TLLV, số 87). Châu Âu không thể chỉ dựa vào di sản trước kia của mình mà phải có khả năng quyết định về tương lai của mình phù hợp với con người và sứ điệp của Đức Giêsu Kitô” (TLLV, số 45). Tin Mừng bây giờ bắt đầu được hiểu là chính con người ĐGK hơn là sứ điệp của Người.
Cuối cùng, việc Tân Phúc Âm Hoá lại trở thành như một động lực thúc đẩy Giáo Hội đổi mới chính mình và trở thành một Tin Mừng sống động cho người khác khi hiểu chính GH phải gặp gỡ, gắn bó với ĐGK thì mới có thể đổi mới rồi đi vào thế giới hôm nay và loan báo Tin Mừng của Người cho mọi loài thụ tạo. “Giáo hội phải có một sức sống mới, quyết tâm, nguồn lực và sự mới mẻ để tìm ra cách thức sống và truyền bá đức tin của mình” (x. TLLV, số 49). Phúc Âm Hoá bây giờ đồng nghĩa với từ “Kitô hoá” hay “Giêsu hoá” hoặc “Giêsu-Kitô hoá” nghĩa là biến đổi chính mình nên giống Chúa Giêsu Kitô, đưa Chúa Giêsu Kitô thâm nhập đời sống và mọi lĩnh vực của đời sống.
Do đó, từ Tân Phúc Âm Hoá bây giờ mang một nội dung sâu xa hơn từ loan báo TM, rao giảng TM hoặc công bố TM và từ nay sẽ được sử dụng thường xuyên hơn trong các văn kiện của GH. Lý do là vì khi nói loan báo TM người ta có thể hiểu là loan báo Đức Giêsu Kitô, nhưng khi dùng với từ “loan báo” thì nó không thể mang ý nghĩa biến đổi thành Chúa Giêsu Kitô hay đưa CGK thâm nhập vào mọi lĩnh vực được. Khi nói “Phúc Âm hoá là nói về sứ mạng đến với muôn dân, nhắm tới những người chưa biết Đức Giêsu” còn “TPAH là hoạt động mục vụ nhắm tới những người không còn thực hành đức tin Kitô giáo” (x. TLLV, số 85, 86, 87).
1.3. Tân Phúc Âm Hoá bao gồm những yếu tố nào?
Để rao giảng Tin Mừng cho có hiệu quả thiết thực, người tín hữu Kitô phải xuất phát lại từ Đức Kitô như rất nhiều văn kiện chính thức của Giáo hội đã nhắc nhở từ lúc chuẩn bị Năm Thánh 2000 đến nay, nhất là phải trở về gặp gỡ ĐGK thì mới có thể xuất phát từ Người.
“Truyền bá đức tin có nghĩa là tạo lập ở mọi nơi và mọi thời những điều kiện dẫn tới cuộc gặp gỡ này giữa con người với ĐGK. Mục tiêu của tất cả việc Phúc Âm Hoá là tạo lập khả năng cho cuộc gặp gỡ này, một cuộc gặp gỡ vừa cá nhân và thân mật, vừa công khai và cộng đồng. ĐTC Bênêđictô nói: “ Làm Kitô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng cao vời, nhưng là cuộc gặp gỡ với một sự kiện, một con người, một cuộc gặp gỡ đem đến một chân trời mới và một hướng đi quyết định” (TLLV, số 18).
“Đối với Đức Giêsu, mục đích của việc Phúc Âm hoá là lôi kéo con người vào trong mối liên hệ mật thiết với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Đây là lý do hàng đầu của việc Người rao giảng và làm phép lạ: công bố ơn cứu độ… để cho mọi người trải nghiệm mình được Thiên Chúa yêu thương và học biết để nhận ra ở Người khuôn mặt của một người Cha từ bi nhân hậu (x. Lc 15)… Đức Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy…” (TLLV, số 18).
“Tân PAH không có nghĩa là đi tìm một Phúc Âm mới, vì ĐGK vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13,8). “TPAH có nghĩa là nuôi dưỡng một nền văn hoá ăn rễ sâu trong TM và khám phá ra “con người mới” (Ep 4,24) ở trong chúng ta như là kết quả của Thần Khí được Chúa Giêsu và Chúa Cha ban cho chúng ta”. (x. TLLV, số 164).
“TPAH có nghĩa là đốt cháy lên trong chúng ta sức bật của GH thời kỳ đầu và để mình được tràn đầy nhiệt huyết rao giảng TM của các tông đồ sau biến cố Hiện Xuống. Chúng ta phải làm sống lại nơi mình niềm xác tín nóng bỏng của Thánh Phaolô khi ngài thốt lên : “Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng TM” (1Cr 9,16) (x. TLLV, số 165).
“TPAH tăng cường ngày một hơn mối quan hệ của chúng ta với Chúa Giêsu Kitô, vì chỉ một mình Người là sự chắc chắn cho tương lai và là bảo đảm cho một tình yêu đích thực và vững bền” (x. TLLV, số 166).
2. Xuất phát lại từ Đức Giêsu Kitô để loan báo Tin Mừng
Để thực hiện việc Phúc Âm Hoá, cần có 3 yếu tố: chủ thể, đối tượng và nội dung. Chủ thể là người thực hiện việc Phúc Âm Hoá nên chính người ấy phải được Đức Giêsu Kitô biến đổi, trở thành hiện thân sống động của Người, thành Tin Mừng cụ thể như Chúa Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa cụ thể cho muôn loài. Đối tượng là người nghe loan báo, người đón nhận Phúc Âm và được Phúc Âm hoá cũng phải được Chúa Giêsu là Tin Mừng biến đổi để chấp nhận những giá trị cao quý của Nước Trời và thể hiện những giá trị ấy trong đời sống. Còn nội dung Tin Mừng là chính Đức Giêsu Kitô vừa là Đấng biến đổi vừa là giá trị được đón nhận. Cả ba yếu tố này đều nối kết mật thiết với văn hoá và đòi hỏi ta phải hiểu biết về văn hoá để đưa Đức Giêsu và giá trị đích thực của Phúc Âm thâm nhập vào mọi lĩnh vục của đời sống. Điều này cũng có nghĩa là thâm nhập trọn vẹn vào nền văn hoá vì văn hoá bao gồm mọi giá trị thể chất và tinh thần mà nhân loại tạo được trong giai đoạn nhất định nào đó của lịch sử. Chính vì thế mà Tài liệu Làm việc của THĐ luôn nhắc đến từ văn hoá trong suốt văn kiện.
2.1. Ba yếu tố trong cuộc Phúc Âm hoá
2.1.1. Trước hết, đối với chủ thể là người loan báo Tin Mừng, người này đang có sẵn một nền văn hoá nào đó, thí dụ các vị thừa sai trước đây đến truyền giáo ở nước ta: họ có sẵn một nền văn hoá Tây Phương với cách ăn uống, suy nghĩ, nói năng, hành động của người Tây Phương. Nhưng khi ở Việt Nam, các linh mục thừa sai học tiếng Việt, mặc áo dài đen, đội khăn xếp, dùng bát đũa ăn cơm như mọi người: đó là họ đã hội nhập với văn hoá Việt Nam.
Nhiều chủ thể loan báo Tin Mừng hiện nay là những người đang chịu ảnh hưởng của nền văn minh tin học, của ý thức hệ duy nghiệm, duy lý, duy thực, của chủ trương giải trừ huyền thoại cho Tin Mừng mà nhà thần học Tin Lành Bultmann đã khởi xướng nên chối bỏ sự phục sinh của Đức Kitô như một sự kiện có thật trong lịch sử, chối bỏ các phép lạ của Chúa Giêsu Kitô, chưa có những cảm nghiệm sống động về Thiên Chúa và chỉ giải thích Tin Mừng theo những phương pháp chú giải lịch sử của con người thì làm sao có thể giới thiệu đúng đắn Chúa Giêsu Kitô cho người khác? Do đó, chúng ta không lạ lùng trước những kết quả yếu kém của việc loan báo Tin Mừng hiện nay.
2.1.2.Thứ đến, đối tượng là người nghe Tin Mừng, họ có thể là những người cùng văn hoá với người loan báo Tin Mừng, nhưng cũng có thể khác, nên không cùng nhận thức, hành động, thói quen. Vì thế, cần phải tìm hiểu nền văn hoá của người nghe để thấy giá trị nào phù hợp với Tin Mừng thì giữ lại, giá trị nào đi ngược với Tin Mừng thì giải thích cho người nghe hiểu để loại bỏ.
Thí dụ: khi đạo Công giáo được truyền vào Việt Nam cách đây ba, bốn thế kỷ, dân tộc Việt Nam đang theo chế độ quân chủ chuyên chế độc tài, coi vua là Thiên Tử, là Con Trời, có toàn quyền sinh sát trong tay. Điều này không hợp với Tin Mừng, nên các nhà truyền giáo giới thiệu một Thiên Chúa là Cha Chung của mọi người và là chủ sự sống, còn tất cả đều là anh em nên không ai có quyền giết ai. Hơn nữa, Đức Giêsu là Thiên tử, là Con Chúa Trời, còn chết thay cho người khác. Tin Mừng như thế giới thiệu giá trị dân chủ và dạy người ta nhận ra vua là đại diện Thiên Chúa cầm quyền trị nước, nên phải trung thành với vua và giữ tình huynh đệ với mọi người. Đó là giới thiệu các giá trị của Tin Mừng cho người nghe.
Những người nghe Tin Mừng ngày nay thường là những người có cùng một nền văn hoá và văn minh với người loan báo tin Mừng vì hầu như các tín hữu Kitô địa phương có nhiệm vụ phải loan báo Tin Mừng cho đồng bào mình, trừ phi họ sống ở các nước chậm phát triển, với một nền văn hoá xa lạ đối với các nhà truyền giáo đến từ các nước văn minh. Người nghe Tin Mừng khao khát được hiểu biết, được cảm nghiệm Đức Kitô một cách sống động, được thấy tận mắt cả những phép lạ để làm chứng cho Tin Mừng (x. Mc 16, 15-20) qua đời sống nhân chứng của chủ thể. Nhưng nếu họ không hiểu, không thấy, không cảm nhận được những dấu chỉ của Đức Giêsu Kitô trong đời sống của người loan báo thì sẽ không tin Đức Giêsu Kitô.
Hơn nữa, người nghe Tin Mừng có thể khác tôn giáo với người loan báo. Tôn giáo cũng là yếu tố cao nhất của văn hoá. Tôn giáo bao gồm một hệ thống giá trị mà người theo tôn giáo hình thành trong đời sống của mình. Vì thế, người loan báo Tin Mừng cũng phải khám phá ra những giá trị nào phù hợp với Tin Mừng trong tôn giáo của người nghe để tôn trọng và gìn giữ cũng như thấy giá trị nào không hợp để giải thích và thay thế. Thí dụ, việc cầu cho vong hồn người chết, việc cúng giỗ tổ tiên ông bà, cõi Niết Bàn-địa ngục của đạo Phật có những điểm tương đồng hay khác biệt nào với đạo Công giáo, theo đạo Công giáo có phải là bỏ ông bà, tổ tiên? Nhiều người Việt Nam hiện nay vẫn chưa tìm được câu giải đáp rõ ràng cho những đề tài này dù đạo đã được truyền bá gần 500 năm qua!
2.1.3. Cuối cùng, nội dung là Tin Mừng phải rao giảng. Rất nhiều người tín hữu chúng ta lại hiểu lầm Tin Mừng chỉ là những lời trong cuốn Tân Ước, những giáo thuyết phải học, những bài giáo lý phải dạy chứ không phải là chính Đức Giêsu.
Vì thế, chúng ta cũng cần phải khám phá ra những giá trị nào thuộc về Tin Mừng vĩnh cửu và giá trị nào thuộc về văn hoá đương thời của dân Do Thái hay của một cộng đồng, một tập thể nào đó. Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người. Khi làm người là Người bị giới hạn trong một không gian, thời gian nhất định nên Chúa Giêsu đã mang những nét văn hoá của thời đại. Như thế, muốn giới thiệu Đức Giêsu như một Tin Mừng vĩ đại chúng ta phải biết đâu là yếu tố văn hoá của Người, đâu là giá trị thực của Tin Mừng Người muốn loan báo, đâu là yếu tố nhất thời của dân tộc Do Thái cần bỏ qua. Nếu không hiểu rõ nền văn hoá ấy, chúng ta sẽ không loan báo Đức Kitô một cách đúng đắn và hiệu quả.
Nhìn lại lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, chúng ta sẽ thấy cha ông ta đã rất thành công trong việc giới thiệu nền văn hoá Công giáo để chuẩn bị cho việc xây dựng nền văn minh tình yêu.
2.2. Xuất phát lại từ Đức Giêsu Kitô như thế nào?
2.2.1. Cần phải xuất phát lại từ Đức Kitô
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong các lời giáo huấn của mình qua những thông điệp, tông huấn, tông thư, diễn văn, bài nói chuyện… luôn mời gọi tín hữu tập trung vào Đức Kitô để xuất phát lại từ Người, nhất là dùng những giá trị của Tin Mừng để thâm nhập đời sống văn hoá xã hội qua thông điệp “Giáo Hội tại châu Á” được công bố ngày 6-11-1999.
Quả thật trong 2.000 năm qua, trong vài thế kỷ đầu tiên Giáo Hội sơ khai biết tập trung vào Đức Kitô và lời dạy của Người, gắn bó với Chúa Thánh Thần nên việc truyền giáo cũng như việc phổ biến văn hoá Công giáo đạt được kết quả lớn lao. Từ năm 313 trở đi, sau khi được tự do giữ đạo, Giáo Hội mất dần sự quan tâm vào Chúa Giêsu để chú ý vào những điểm khác như tổ chức cộng đồng với giáo phận, giáo xứ, xây cất các cơ sở tôn giáo như nhà thờ, đền thánh, rồi từ thế kỷ 11,12 vào việc thiết lập các dòng tu và noi gương các thánh lập dòng hơn noi gương Chúa Giêsu, thế kỷ 15,16 vào việc lo cho các công tác mục vụ, truyền giáo, thế kỷ 19 và 20 lo đối phó với những học thuyết sai lạc…
Chỉ từ giữa thế kỷ 20, người ta mới bắt đầu quan tâm đến môn Kitô học nhưng cho tới ngày nay, môn học này vẫn kém phát triển, chưa đạt tới tầm vóc xứng hợp như là môn học nền tảng của Kitô giáo. Công đồng Vaticanô II với các văn kiện của mình như muốn nhắc nhở tín hữu Công giáo tập trung vào Đức Kitô như nền tảng và gương mẫu cho mọi hoạt động Kitô hữu. Huấn thị “Xuất phát lại từ Đức Kitô” của Thánh Bộ Đời sống Thánh hiến và Hiệp hội Tông đồ ban hành ngày 19-5-2002 nhắc nhở tu sĩ nam nữ tìm về nguồn sống là Chúa Kitô thay vì tập trung vào vị Sáng lập dòng.
Nhiều đại học Công giáo hiện nay không có giảng khoá hoàn chỉnh về môn Kitô học do những tranh cãi về quan điểm thần học liên quan tới Đức Kitô nhất là giữa các dòng tu với nhau. Nhiều đại chủng viện vẫn giảng dạy giáo trình Kitô học lỗi thời, thậm chí sai lạc, mà không cập nhật những điểm giáo lý mới mẻ và đúng đắn được trình bày trong các sách như Giáo lý Hội Thánh Công giáo (Bộ Giáo lý Đức tin ban hành ngày 11-10-1992, bản dịch Việt hoàn chỉnh và in năm 2009, NXB Tôn Giáo, Hà Nội), Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo (Hội Đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình công bố năm 2004, bản dịch Việt hoàn chỉnh và in năm 2007, NXB Tôn Giáo, Hà Nội), Đức Giêsu Nazareth 3 tậpcủa ĐGH Bênêđictô XVI (Tập I công bố ngày 30-9-2006, bản dịch Việt hoàn chỉnh và in năm 2008, NXB Tôn Giáo, Hà Nội, tập II công bố ngày 25-4-2010 và mới có bản dịch Việt ngữ cuối năm 2011, tập III hy vọng sẽ có bản dịch tiếng Anh vào tháng 12-2012, bản dịch Việt ngữ sau đó).
Người ta thường nói:”Vô tri bất mộ” (không biết nên không tôn kính). Chính vì chưa hiểu biết rõ ràng, đúng đắn về Đức Kitô nên đời sống đạo của người tín hữu không toả ánh sáng Tin Mừng để có sức thu hút người khác tìm về với Đức Kitô. Hơn nữa, việc hiểu biết này sẽ giúp người ta đạt đến việc yêu mến Đức Kitô và gắn bó mật thiết với Người để cảm nhận được sự sống kỳ diệu của Thiên Chúa mà Người chia sẻ cho mình. Từ đó họ mới trở thành một Tin Mừng sống động, thành hiện thân của Đức Kitô và mới làm chứng cho Người bằng cách kể lại câu chuyện của đời Chúa cũng là câu chuyện của đời mình.
Từ kinh nghiệm trên đây, Uỷ ban truyền giáo các nước châu Á mới chọn chủ đề của Đại hội Truyền giáo Châu Á 2005 ở Chang Mai, Thái Lan, là “Kể lại câu chuyện Giêsu” như các tông đồ xưa sau khi họ hiểu biết và cùng sống với Người. Chủ đề của Đại hội Truyền giáo Châu Á 2010 ở Seoul, Hàn Quốc, cũng lấy lại chủ đề ấy “Công bố câu chuyện Giêsu”, nhưng nâng cao hơn một mức vì “công bố” đòi hỏi ta nói về Đức Giêsu một cách trang trọng, có nghiên cứu, có bài bản mà vẫn dựa trên kinh nghiệm sống động của người làm chứng.
2.2.2. Hiệu quả của việc trở về với Đức Kitô
* Trở lại với Đức Kitô là chúng ta sẽ tìm lại được cảm nghiệm sống động của các tông đồ về Đức Giêsu Phục Sinh như là tâm điểm cho mọi hoạt động và suy tư của mình. Đức Giêsu không phải là một mớ thông tin mà ta đã thu thập được trong những giờ học giáo lý hay qua những bài giảng, bài kinh, nhưng là một con người đang sống giữa chúng ta và sống trong ta để ta có mối tương quan mật thiết với Người. Để hiểu trọn vẹn về một con người đang sống, ta không phải chỉ cần thông tin mà còn phải gặp gỡ, tiếp xúc, yêu thương và hoà nhập thành một trong nhau “để tôi sống không còn phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi” (x. Gl 2,20) như thánh Phaolô cảm nghiệm…
ĐTC Bênêđictô đã khẳng định: “Trở thành Kitô hữu không phải là kết quả của một sự lựa chọn đạo đức hay của một ý tưởng cao cả, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố, một con người, nó đem sức sống đến cho một chân trời mới và một hướng đi có tính quyết định… Sự gặp gỡ thân mật này giúp cho các cá nhân chia sẻ mối quan hệ của Chúa Con với Cha của Người và trải nghiệm quyền năng Chúa Thánh Thần… Đây là kinh nghiệm mới mẻ về Thiên Chúa của người Kitô hữu” (x. Đề Cương THĐGM 2012, số 11) (TLLV, số 18).
* Sống trong một đất nước mà nền văn hoá và văn minh nơi người dân hiện nay mang nhiều tính cách đối nghịch: vừa tìm tòi khoa học và coi trọng kỹ thuật, vừa chạy theo những bùa phép với những tác động mê tín dân gian, ta cần phải trở lại với Đức Kitô và hoà nhập thành một với Người để Người chuyển thông cho ta quyền năng làm chứng cho Tin Mừng. Quyền năng này được thể hiện qua việc trình bày những giá trị văn hoá Kitô giáo một cách thuyết phục với những hiểu biết khoa học chính xác chứ không phải chỉ là những xúc động tình cảm nhất thời, nhất là qua các dấu lạ như chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, nói được thứ ngôn ngữ mới lạ của tình yêu mà Thánh Thần thúc đẩy trong lòng ta (x. Mc 16,16-20).
* Sống trong một châu lục với nhiều dân tộc có các nền văn hoá và tôn giáo khác nhau, ta cần trở lại với Đức Kitô để thấy Người không phải là của riêng Kitô giáo nhưng là Đấng Cứu Độ của toàn thể nhân loại và vũ trụ. Cha trên trời muốn cứu độ tất cả con cái mình nên đã ban Người Con Một cho chúng ta và Chúa Thánh Thần vẫn đang chuẩn bị cho việc Đức Kitô đến với mọi người cũng như không ngừng nói trong các tôn giáo (x. Tuyên ngôn của CĐ. Vat. II, Nostra aetate, số 1; Giáo hội tại châu Á, số 15,18). Học lại thái độ khoan dung của Đức Kitô, ta sẽ biết phân biệt những hình thức mê tín dị đoan đồng thời biết đánh giá đúng các nghi thức phụng vụ, lời kinh và cách sống của những người không cùng tôn giáo với mình, thậm chí ngay trong việc trừ ma diệt quỷ của họ (x. Mc 9,39-40).
* Trở lại với Đức Kitô ta sẽ khám phá ra mầu nhiệm Nhập Thể luôn gắn liền với mầu nhiệm Nhập Thế để can đảm dấn thân vào xã hội trần thế hôm nay. Ngôi Lời Thiên Chúa đã trở thành Đức Giêsu Nazareth, đã đi vào dòng lịch sử con người, đã đón nhận những yếu tố của vũ trụ vật chất qua thân xác của mình. Người đã đưa tính cách tuyệt đối, vĩnh hằng, thánh thiện, vô cùng của Thiên Chúa vào trong cái tương đối, nhất thời, tội luỵ, hữu hạn của con người và vũ trụ để từ nay tất cả đều được biến đổi và thần hoá. Từ đấy, mỗi con người đều có giá trị vô song dù họ già nua, tàn tật, xấu xa đến đâu chăng nữa. Từ đấy, mỗi công việc đều có giá trị vĩnh hằng, đem lại ơn cứu độ dù nó chỉ kéo dài một vài giây như một nụ cười, một lời cám ơn, xin lỗi, hoặc việc làm có vẻ tầm thường như giặt quần áo mỗi ngày, hay rửa mặt đánh răng mỗi bữa, nhưng nhờ được gắn kết với Chúa Giêsu Kitô tất cả đều có giá trị vĩnh hằng.
* Trở lại với Đức Giêsu Kitô để thấy rằng qua việc Ngôi Lời Thiên Chúa trở thành con người, thì “con người trở thành con đường của Thiên Chúa và cũng là con đường của Giáo Hội” để tập trung mọi cố gắng lo cho hàng tỷ con người trong vùng đất châu Á, nhất là những con người nghèo khổ, bệnh tật, yếu kém, bị bóc lột và bị gạt ra ngoài lề xã hội, như Đức Giêsu đã tất bật từ sáng sớm đến tối mịt để rao giảng Tin Mừng, cứu giúp người đói khát, chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ cho con người.
* Trở về với Đức Giêsu cũng có thể là lời kêu gọi các người có trách nhiệm xây dựng cơ sở vật chất trở về với tinh thần nghèo khó thật sự của Người. Những ngôi nhà thờ đồ sộ, những tu viện to lớn với cách bày trí sang trọng, sừng sững giữa các túp lều tranh rách nát, mái tôn han rỉ, cống nước thải lộ thiên trong một số miền ở Việt Nam cũng như ở châu Á có thể trở thành những pháo đài kiên cố khiến người ta ngại ngùng không dám tìm gặp Đức Kitô ở đó để từ đây xây những những cơ sở tôn giáo phù hợp với hoàn cảnh và tính trạng kinh tế của công đồng hơn.
* Những cuộc hành hương với vài trăm ngàn người trong các đại hội Thánh Thể, hay Đại hội Thánh Mẫu ở La Vang, Tà Pao, thậm chí ở nước ngoài, trong đó mỗi người ở xa tiêu hàng triệu đồng, người ở gần tốn vài chục ngàn cho việc đi lại ăn ở và nếu tính tổng cộng có thể lên tới hàng chục tỷ, hàng trăm tỷ đồng, trong khi hàng trăm ngàn học sinh vẫn còn thiếu sách vở, thiếu trường lớp, trong khi hàng triệu người khuyết tật chưa được săn sóc, nhiều bệnh nhân nghèo chưa cầm được bát cháo giúp đỡ thì có khi ta phải nhìn lại cách thức bày tỏ lòng đạo của chúng ta đối với Chúa và Đức Mẹ cho âm thầm, khiêm tốn và thật sự bác ái hơn chăng? Nói như thế không phải là chúng tôi có ý bài bác lòng sùng đạo bình dân nhưng chỉ mời gọi người tín hữu suy nghĩ để tình bác ái được diễn tả theo đúng sự thật của đất nước, của dân tộc và gia đình nhân loại như ĐTC Bênêđictô mời gọi trong thông điệp Caritas in veritate (ngày 29-6-2009) của ngài.
ĐTC Phaolô VI nhắc nhở chúng ta rằng: “Con người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn nghe những thầy dạy và nếu họ có nghe những thầy dạy thì đó là vì những thầy dạy này là những chứng nhân”. Vì vậy Giáo Hội sẽ Phúc Âm hoá thế giới bằng chính hành vi và đời sống của mình, nói khác đi, bằng việc làm chứng lòng trung thành của Giáo Hội đối với Chúa Giêsu: chứng tá về sự nghèo khó và vô vị lợi, chứng tá về sự tự do trước những quyền lực của thế giới này, tóm lại, chứng tá về sự thánh thiện”(x. TLLV, số 158).
Lời kết
Có lẽ còn rất nhiều điều, nhiều việc trong nếp sống đạo của người tín hữu ở Việt Nam cũng như ở châu Á cần được nhận định và sửa đổi lại dưới ánh sáng Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô để biểu lộ được sự thật, sự sống và tình yêu của Người cho các dân tộc đang sống quanh mình. Đó là những giá trị nền tảng của nền văn minh tình yêu mà mỗi người tín hữu chúng ta đang thiết tha mong muốn xây dựng cho dân tộc Việt Nam. Chúng ta hy vọng sẽ có nhiều người tìm đến với Đức Kitô không phải chỉ qua những nghi lễ trang trọng, việc bác ái từ thiện của người tín hữu nhưng họ gặp được nguồn của tình yêu hạnh phúc, của chân thiện mỹ là chính Đức Kitô khi các Kitô hữu chúng ta tìm về với Người và xuất phát lại từ Người.
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn nghĩ kết quả truyền giáo tại Việt Nam chưa được tốt đẹp là do những yếu tố nào? Bản thân bạn đã loan báo Tin Mừng như thế nào? Kết quả cụ thể ra sao? Bạn có muốn chia sẻ một kinh nghiệm truyền giáo nào không?
2. Theo bạn, muốn xuất phát lại từ Đức Kitô, người tín hữu chúng ta cần phải làm gì?
3. Bạn nghĩ mình có thể làm gì để tăng thêm sự hiểu biết đúng đắn và có hệ thống về Đức Kitô?
Bài 4
Đức tin là cuộc gặp gỡ
giữa con người với Thiên Chúa
Lời mở
Năm Thánh Đức Tin bắt đầu từ tháng 10/2012 để mời gọi Kitô hữu Công giáo chúng ta nhìn lại đức tin của mình, sống đức tin đó và truyền đức tin đó cho người khác.
Nhưng đức tin là gì, đức tin đến từ đâu và phát triển như thế nào?
Có nhiều sách viết về đức tin và định nghĩa đức tin, nhưng hôm nay chúng ta muốn dành ít phút để tìm hiểu đức tin cách đơn giản như là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người như Chúa gặp Abraham (x. St 12,1-5; Rm 4,16) hay Chúa Giêsu gặp gỡ nhiều người và chữa lành họ vì họ có đức tin (x. Mt 9,22; Mc 4,40; 10,52; 11,22; Lc 7,50; 17,19; 18;42…)
1. Đức tin là gì?
Cuộc gặp gỡ nào cũng có 2 thành phần: người đến gặp và người được gặp. Thiên Chúa là người đến gặp và con người gặp được Ngài. Thiếu 1 thành phần thì không thể có đức tin.
“Thiên Chúa vô hình, do tình thương chan hoà của Ngài, đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu và liên lạc với họ để mời gọi họ và chấp nhận cho họ đi vào cuộc sống của chính Ngài” (Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, số 2). Vì thế, “đức tin là sự đáp lại thích đáng của con người đối với lời mời gọi của Thiên Chúa” (Giáo lý Hội Thánh Công giáo (GLHTCG), số 142).
Về phía con người, đức tin là sự cố gắng vươn tới Thiên Chúa
Thiên Chúa tuyệt đối linh thiêng, cao cả vô cùng, nhưng con người vẫn có khả năng nhận biết Ngài bằng lý trí tự nhiên của mình (x. GLHTCG, số 50) vì con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và giống Thiên Chúa (x. Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo, số 34, 108-109).
Như thế, về phía con người, đức tin là sự cố gắng liên lỉ vươn tới TC bằng trọn vẹn bản thân mình (x. GLHTCG, số 143), qua việc học hỏi, tìm hiểu, cầu nguyện, hành động bác ái, tự nguyện quy thuận các chân lý Chúa mạc khải (x. GLHTCG, số 144).
Có nhiều người không cùng tôn giáo với ta nhưng vẫn được Chúa ban ơn đức tin nhờ cố gắng tìm Chúa bằng lý trí của mình.
Có tìm hiểu và biết được TC là nguồn sự thật và sự sống, nguồn ân sủng và tình yêu, nguồn quyền năng và hạnh phúc mà mình cần đến thì con người mới muốn gặp gỡ Ngài. Nếu không, họ sẽ tìm đến những thứ khác, dù không phải là nguồn, nhưng ít ra cũng cho họ cảm nghiệm chút ít về sự sống, hạnh phúc, tình yêu….
Có tìm hiểu và biết được TC, vì yêu thương con người, đã cho Con Một Ngài trở thành người là Đức Giêsu Kitô, trở thành nguồn sống và tình yêu cụ thể, nguồn chân thiện mỹ cụ thể, thì con người mới muốn gặp gỡ Đức Giêsu Kitô và tin vào Người (GLHTCG, số 150-151).
Có bao giờ bạn muốn tìm về tận nguồn của sự sống, tình yêu, tư tưởng hay bạn đang bằng lòng với những gì mình có?
Còn về phía Thiên Chúa, đức tin là hồng ân nhưng không Chúa tặng ban cho con người (x. GLHTCG, số 153, 162,179).
Dù con người không cố gắng vươn tới TC thì từng giây, từng phút, TC vẫn đến với con người, vẫn ban sự sống, tình yêu, ân phúc, quyền năng và tất cả những gì tốt đẹp nhất của Ngài cho con người.
Một khi con người mở lòng đón nhận ân sủng Chúa ban, họ sẽ nhận được “sự thôi thúc từ bên trong của Chúa Thánh Thần: Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng TC, Ngài mở mắt lý trí và cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý” (x. Công đồng Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, chương 3, DS 3008).
Bạn có cảm nhận được từng giây phút bạn sống, từng ý tưởng trong đời, từng rung động trong tim đều bắt nguồn từ Thiên Chúa không?
Như vậy, trong cuộc gặp gỡ hình thành nên đức tin nơi con người, 2 yếu tố TC và CN gắn kết chặt chẽ với nhau: con người càng tìm hiểu sâu xa, gắn bó mật thiết với TC và Đức Giêsu Kitô, thì ân sủng đức tin và các ân sủng khác càng tuôn đổ dồi dào.
Họ được thúc đẩy hành động như Đức Giêsu Kitô thuở trước, trở nên Lời sống động của Người, từ đó họ có thể truyền bá đức tin mình cho người khác như các tông đồ và tín hữu thời xưa một cách hiệu quả.
2. Ơn đức tin đến từ đâu?
Cuộc gặp gỡ giữa con người và TC không phải ngẫu nhiên, tình cờ vì TC luôn có mặt, ở sát bên con người, ngay trong lòng con người, nhưng con người lại không nhận ra Ngài. Vì thế cuộc gặp gỡ cần một sự khởi đầu từ phía con người.
Thánh Phaolô trong bài đọc Rm 10, 8-18 giải thích cho chúng ta hiểu rằng: tin là nhờ nghe, nghe là nhờ có người rao giảng, rao giảng được là vì được Chúa sai đi. Vậy chúng ta đã tin, đã nghe, đã rao giảng và được sai đi như thế nào?
Bạn hãy nhớ lại xem ai đã chuyển thông đức tin cho bạn: cha mẹ, thầy cô, bạn bè, người yêu?
Bạn đã chuyển thông đức tin cho ai chưa? Có bao nhiêu người nhận được ơn đức tin từ bạn?
Đức Giêsu trong bài Tin Mừng (x. Mc 16,15-20) đã sai chúng ta: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ”.
Ơn đức tin đã được ban cho ta, kèm theo ơn đó là tình yêu, quyền năng và muôn vàn ân sủng khác của Thiên Chúa Ba Ngôi nên Đức Giêsu nói rõ hơn: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhầm thuốc độc thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16,17-18).
Bạn đã làm được dấu lạ nào để truyền thông đức tin cho người khác? Bạn có tin mình làm được dấu lạ không? Nếu không, tại sao?
Tất cả ân huệ ấy được ban cho ta để ta trở thành Tin Mừng sống động, thành hiện thân của Chúa Giêsu giúp người khác cảm nghiệm được rằng Thiên Chúa cũng đang mời gọi họ đến gặp gỡ Ngài và đón nhận ơn cứu độ cụ thể từ phía chúng ta.
Họ đói rách ư! Chúng ta chia sẻ cho họ bát cơm, chiếc áo mà Chúa ban từ sự lao động chân chính của mình. Họ bệnh tật ư! Chúng ta chia sẻ viên thuốc, sự săn sóc hay cả ơn chữa bệnh lạ lùng Chúa Giêsu ban cho ta để làm chứng về Người. Họ bị ma quỷ kiềm chế ư! Chúng ta giải cứu họ bằng lời cầu nguyện, chay tịnh, xin lễ cho các linh hồn được siêu thoát và cả việc xua trừ ma quỷ nhân danh Chúa Giêsu.
Vì thế đức tin luôn kèm theo hành động cứu độ, không có những hành động này, đức tin sẽ chết (x. Gc 2,17).
Bạn đang có hành động cụ thể nào chứng minh đức tin của bạn?
Hay bạn chỉ bằng lòng với việc cầu nguyện, dự lễ, thỉnh thoảng làm vài việc bác ái? Bạn nghĩ mình sẽ làm thêm điều gì theo lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô?
3. Đức tin phát triển như thế nào?
Hình như nhiều người chúng ta không tin hay chưa tin vào những ân sủng kèm theo ơn đức tin để hành động như Chúa Giêsu truyền dạy nên việc loan báo Tin Mừng chưa có kết quả tốt đẹp. Hơn nữa, vì không được củng cố bằng những dấu lạ, đức tin của chính họ không phát triển và họ cũng không truyền bá được đức tin cho người khác.
Điều này khác hẳn thái độ của các tông đồ và môn đệ Chúa Giêsu trước đây: “Còn các tông đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16,20).
Nhiều người lầm tưởng rằng, ơn đức tin chỉ cần lãnh nhận 1 lần qua bí tích Rửa Tội là đủ, rồi đức tin tự nó lớn lên như cây non mà chẳng cần phải chăm sóc tưới bón gì hết.
Họ quá nhấn mạnh đến ơn ban về phía TC: Chúa không ban thì đức tin làm sao phát triển! Họ quên đi sự cố gắng liên lỉ về phía con người: con người vươn tới TC từng bước trong suốt đời mình bằng sự cố gắng tìm hiểu, học hỏi, suy tư, cầu nguyện, hoạt động bác ái.
Cứ mỗi bước gần hơn, thì khuôn mặt Chúa lại hiện rõ hơn, to hơn, đẹp hơn và họ cảm thấy hạnh phúc hơn, quyền năng hơn, yêu thương hơn. Như thế, đức tin phát triển liên tục theo từng cố gắng dù nhỏ mọn nhất của con người.
Bạn dự tính làm gì để phát triển đức tin của mình? Bạn làm gì để truyền bá đức tin cho người khác? Cụ thể người đó là ai?
Lời kết
Những lời gợi ý hôm nay nhân ngày đầu tiên của tuần tĩnh tâm Mùa Chay như thúc đẩy chúng ta dành thêm cho Chúa những giây phút để gặp gỡ Ngài, học hỏi về Chúa Giêsu và hành động theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Chắc chắn ta sẽ làm cho đức tin của mình phát triển mạnh mẽ và đức tin người khác được khai mở trên cánh đồng truyền giáo Việt Nam.
Cuộc gặp gỡ đức tin cụ thể
Lời mở
Chúng ta vừa tìm hiểu đức tin là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người.
Về phía Thiên Chúa, đó là một ơn ban Ngài trao cho con người để con người có thể mở lòng đón nhận chính Ngài cùng với tất cả những ân sủng để được thông phần vào đời sống kỳ diệu của Thiên Chúa. Về phía con người, đó là một sự cố gắng liên lỉ để con người vươn tới Thiên Chúa bằng tất cả khả năng của mình.
Các bài Kinh Thánh, nhất là bài Tin Mừng (x. Mc 10,46-52) như muốn diễn tả từng chi tiết của cuộc gặp gỡ đức tin này có những yếu tố cụ thể nào. Chúng ta sẽ tìm hiểu những chi tiết đó về phía con người, phía Thiên Chúa và cuối cùng là cả hai bên khi gặp được nhau.
1. Những chi tiết cụ thể về phía con người
1.1. Trước hết, đức tin luôn là một hành động nhân linh (x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo (GLHTCG), số 160) của con người cụ thể, rõ rệt, có tên tuổi, cha mẹ đàng hoàng, chứ không phải là một con người chung chung, bất định.
Ở đây là Bartimê, con ông Timê. Trong các phép lạ khác, tác giả Tin Mừng ít khi nói đến tên của người được chữa lành.
Bạn có ý thức được mình khi tin vào Chúa không? Mỗi lần bạn đi dự lễ, cầu nguyện… bạn làm vì tự nguyện hay do người khác thôi thúc?
Trong xã hội hiện nay, nhiều người chỉ muốn ẩn thân vào đám đông. Đi ra đường, họ dùng khăn to để bịt mặt, đeo kính râm, không phải chỉ để che bụi, che nắng nhưng còn che mặt để người khác không nhận ra mình.
Trong cộng đồng ẩn danh, nhiều người sống nặc danh, dùng tên giả để không ai nhận ra họ và họ nghĩ rằng mình có thể làm bất cứ chuyện mờ ám, bất công, thất đức vì chắng ai nhìn rõ mặt mình. Họ không dám chịu trách nhiệm về hành động của họ.
Có bao giờ bạn muốn ẩn mình vào đám đông để không ai nhận ra bạn khi bạn làm một điều không chính đáng? Bạn có dám tự nguyện nhận lỗi với ý thức làm chủ được mình không?
Đức tin không phải như vậy. Đức tin là sự cố gắng vươn tới của từng người chúng ta đến Thiên Chúa: với tất cả tự do, ý thức, đồng thời kèm theo trách nhiệm của mình (x. GLHTCG, số 33) vì thế khi đọc kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: “Tôi tin kính một Thiên Chúa”.
1.2. Yếu tố thứ hai, đó là con người ý thức về tình trạng khốn khổ của mình và muốn vươn lên.
Bartimê biết mình bị mù, anh hiểu được tình trạng nghèo túng, tầm thường, yếu đuối của mình. Anh không muốn mình cứ mãi mãi ngồi bất động bên vệ đường, sống nhờ vào lòng thương xót của người khác, muốn làm gì cũng phải nhờ ai đó giúp đỡ.
Có ý thức mình nghèo túng, bất động, yếu đuối, tầm thường ta mới muốn tìm về nguồn sự sống, hạnh phúc, tình yêu, nguồn chân thiện mỹ là chính thiên Chúa.
Rất nhiều người trong thế giới hiện nay người ta không muốn tìm về với Thiên Chúa bởi vì người ta không ý thức về tình trạng sống của họ. Họ nghĩ mình sống mãi chứ không nghĩ đến cái chết sẽ tước đoạt tất cả những gì họ có.
Hơn nữa, họ còn bằng lòng, thậm chí tự mãn, với danh lợi, tài năng, sắc đẹp và tất cả những gì họ đang có. Họ tưởng rằng những gì mình có được là do tài năng, bàn tay, khối óc của mình làm ra nên họ không tìm về với Thiên Chúa. Vì thế, họ không nhận được ơn đức tin.
Có bao giờ bạn nghĩ như họ không?
Bartimê dùng lý trí của mình để tìm hiểu về Đức Giêsu Nazareth qua những câu chuyện người ta kể về Người, anh biết Người là Đấng Mêsia qua tước hiệu anh gọi Người là “con vua Đavit”, anh hy vọng Người sẽ cứu chữa anh khỏi tình trạng khốn khổ.
Điều đó cũng gợi ý cho chúng ta cần tìm hiểu về Thiên Chúa, về Đức Giêsu Nazareth để biết Người là ai qua những cố gắng học hỏi của chúng ta.
Bạn biết gì về Đức Giêsu Nazareth của bạn? Bạn đã đọc một sách gì về Người? Bạn có đeo ảnh tượng của Người hay làm một điều gì đó cho Người không?
1.3. Yếu tố thứ ba đó là anh ta dám kêu lên, “kêu to, trong khi đám đông quát nạt bảo anh ta im đi” (Mc 10,48).
Trong cuộc sống, rất nhiều khi đám đông muốn chúng ta sống ẩn danh như họ, cũng hưởng thụ, tham nhũng, lừa dối, tàn ác như họ. Nếu chúng ta làm khác đi, là họ muốn loại trừ chúng ta.
Đức tin chính là tiếng kêu to vượt trên đám đông để nói với Thiên Chúa, cụ thể là Đức Giêsu Kitô, để cầu nguyện, cầu xin với Người.
Bạn có đang chịu một áp lực nào đó của đám đông muốn dập tắt niềm tin vào Đức Giêsu của bạn không? Áp lực đó đến từ đâu? Có bao giờ bạn kêu to để cầu cứu với Giêsu không?
1.4. Yếu tố thứ tư đó là anh ta “vất bỏ áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu”.
Đây là những hành động quyết liệt của con người muốn thoát ly khỏi tình trạng sống bám vào những gì riêng tư, ích kỷ như tấm áo choàng anh mù quấn quanh mình, vượt ra khỏi tình trạng ngồi yên bất động để tiến đến gần nguồn sự sống và chân thiện mỹ.
Thực ra, ngay khi con người vừa nhỏm dậy, Chúa đã ở sát bên họ.
Bạn vứt bỏ cái gì để theo đuổi niềm tin vào Đức Giêsu?
2. Những chi tiết cụ thể về phía Thiên Chúa
Mỗi hành động của con người trong cuộc gặp gỡ đức tin, dù nhỏ nhặt đến mấy, đều được Thiên Chúa đáp ứng.
2.1. Trước hết và trên hết, cuộc gặp gỡ đức tin là sáng kiến của Thiên Chúa, từ muôn thuở Ngài muốn đến với con người để cứu thoát con người, và qua đó cứu độ toàn thể vũ trụ, vì Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu. Vì thế, đức tin là ân sủng cao quý của Chúa ban mà không đòi hỏi con người bất cứ điều kiện gì.
Thiên Chúa ở đây không phải là một đấng thượng đế tối cao, thần linh xa vời theo sự tưởng tượng của con người mà là một Thiên Chúa cụ thể, có tên tuổi, gốc gác đàng hoàng. Đó là Đức Giêsu thành Nazareth (Mc 10,47).
Thiên Chúa linh thiêng, tuyệt đối, vĩnh hằng, vì yêu thương, nên đã ban Người Con một của Ngài để Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, trở thành Đức Giêsu Nazareth (x. Ga 3,16).
Chính nhờ vị Thiên Chúa cụ thể này mà con người được nâng lên địa vị cao cả tột cùng, trở thành con cái của Thiên Chúa và có thể thông phần vào sự sống kỳ diệu của Ngài.
2.2. Đức Giêsu đang đi trên đường cùng con người, với các môn đệ và đám đông, để dẫn họ về nguồn của sự sống và tình yêu, của chân thiện mỹ, của tất cả những gì con người mơ ước để thoát khỏi tình trạng hèn kém, khốn khổ, nhất thời, bị giới hạn và lệ thuộc của mình.
Vì thế Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30); “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6); “Tôi đến để cho họ được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Bạn có bao giờ cảm nhận mình đang đồng hành với Đức Giêsu không? Hay bạn ngồi bên vệ đường không cùng đi với Người?
Bạn có đang đi tìm sự thật cụ thể trong khoa học, hay một tình yêu cụ thể nào không?
Bạn có đang đau yếu, tật bệnh và muốn tìm Giêsu để được chữa lành không?
2.3. Đức Giêsu nghe được lời kêu cứu của con người, dù tiếng kêu ấy vang lên giữa đám đông hỗn loạn hay bị đe doạ bắt phải im lặng, vì Người thấu hiểu lòng con người (Mt 12,25; Lc 11,17; Ga 6,64).
Người muốn cứu độ tất cả vì tất cả được dựng nên nhờ Người và cho Người (Ga 1,3). Vì thế chúng ta hãy tin tưởng kêu cứu và đặt tất cả hy vọng vào Người.
2.4. Đức Giêsu kêu gọi và hỏi anh mù muốn Người làm gì cho anh. Khi kêu gọi con người hãy tin tưởng đến gần mình, Đức Giêsu muốn trao cho họ một sứ mạng đặc biệt và họ cần phải khám phá ra sứ mạng ấy để sống cho có ý nghĩa.
Hơn nữa, khi hỏi như vậy không phải Người không biết điều họ cần, nhưng Người muốn cho cuộc gặp gỡ đức tin được hoàn toàn tự do, không bị áp lực về phía con người. Người muốn con người hãy có những ước vọng cao hơn thay vì chỉ xin Người những đồng bạc bố thí, cái bánh, con cá hay những ân huệ tạm thời.
Sứ mạng của bạn hiện nay là gì? Là giáo viên truyền dạy sự thật, là sinh viên đi tìm sự thật, là người buôn bán phục vụ nhu cầu của anh chị em… Nếu Đức Giêsu hỏi bạn về yêu cầu hay ước mơ, bạn sẽ trả lời Người như thế nào?
3. Cuộc gặp gỡ giữa hai bên
3.1. Cuộc gặp gỡ đức tin đã hoàn thành ngay khi mắt anh mù mở ra để nhìn thấy Đức Giêsu.
Người là ánh sáng cho trần gian để soi sáng tất cả những ai đang sống trong bóng tối của cuộc đời lệ thuộc, nghèo đói, buồn thảm, bất toàn và giúp họ cảm nhận được đời sống đầy màu sắc tươi đẹp, tự do, bình an, hạnh phúc của Thiên Chúa. Đó là kết quả của đức tin. Do đó, Đức Giêsu mới bảo anh: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh” (Mc 10,52).
Tuy nhiên, sau khi gặp được Đức Giêsu và được sáng mắt, sáng lòng, Bartimê đã nhận ra ngay sứ mệnh của mình là “để đi theo Người trên con đường Người đi”.
Anh không về nhà ăn mừng với người thân, bè bạn hay chọn đời sống theo ý muốn riêng.
Anh chọn Giêsu và đi theo Giêsu là con đường dẫn đến sự thật và sự sống, đến tình yêu và hạnh phúc vĩnh hằng để khi gắn bó với Giêsu, anh sẽ mang ơn đức tin đến cho người khác.
3.2. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người mù Bartimê là cuộc gặp gỡ đức tin của từng người chúng ta trong đời sống.
Nhiều người nghĩ rằng Chúa Giêsu sống cách đây 2000 năm, đã lên trời, chứ không biết Người đang cùng đi với mình trên đường đời. Người đang hiện thân nơi cha mẹ, vợ con, bạn bè, hàng xóm… và tất cả những ai mà chúng ta gặp gỡ trong đời.
Nếu có được đôi mắt đức tin như Bartimê, ta sẽ nhìn thấy Người trong mọi người, mọi vật quanh ta và lúc nào ta cũng có thể gặp được Người. Bất kỳ hành động nào ta làm cho con người, dù là con người nhỏ mọn nhất, là ta làm cho chính Thiên Chúa (x. Mt 25,31-46).
Bạn có nghĩ mình đã sáng mắt sáng lòng qua cuộc gặp gỡ được Đức Giêsu trong đời không? Nếu bạn chưa gặp được Người, bạn nghĩ mình nên làm gì?
Nếu bạn gặp được Người rồi, bạn sẽ hành động như thế nào?
Lời kết
Vì thế, trong Năm Đức Tin này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thể hiện lại những chi tiết cụ thể trong cuộc gặp gỡ đức tin để có thể truyền bá đức tin cho người khác.
Theo Đức Giêsu Kitô để truyền bá đức tin
Lời mở
Người hành khất Bartimê, nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu, đã được Người làm cho sáng mắt sáng lòng. Thay vì về nhà để theo đuổi những dự tính của đời mình, anh đã đi theo Đức Giêsu trên con đường của Người, con đường dẫn đến sự thật và sự sống (x. Ga 14,6) để cứu độ muôn loài. Chúng ta cũng được mời gọi bước theo Đức Giêsu như Bang Chủ của những người Hành khất Kitô trong thời đại hôm nay, sống tinh thần nghèo khó của Người và dùng lưỡi gươm Lời Chúa để hành hiệp giang hồ, hàng ma phục linh như Người. Đây là ước mơ của nhiều bạn trẻ trên khắp thế giới.
1. Hồng ân đức tin: sáng mắt sáng lòng
Nhờ lòng tin, Bartimê đã gặp Chúa Giêsu và Người đã chữa lành đôi mắt mù loà để anh sáng mắt sáng lòng, nhìn rõ mình, nhìn rõ Đức Giêsu và cả xã hội mình sống, rồi từ đó anh nhận ra ngay sứ mệnh của mình là bước theo Đức Giêsu trên con đường của Người. Đó cũng là những hiệu quả của một đức tin chân thật nơi mỗi Kitô hữu khi gặp được Chúa Giêsu.
1.1. Nhận ra được con người thật của mình
Bartimê, khi được sáng mắt, nhận ra mình chính là người được Thiên Chúa yêu thương qua việc chữa lành của Chúa Giêsu. Anh nhìn rõ con người thật của mình với thể xác, tâm hồn và tất cả những gì anh có đều là hồng ân của Chúa. Trước đây, anh sống tạm bợ, chật vật nhờ sự bố thí và lòng tốt của người khác. Giờ đây anh sống thoải mái, dồi dào hạnh phúc, tự do vì tìm về được với Thiên Chúa là nguồn vĩnh hằng, nguồn chân thiện mỹ và nguồn hạnh phúc vô biên qua sự hiện diện của Đức Giêsu. Vì thế, anh xác tín về lòng tin của mình vào Đức Giêsu. “Tôi tin”: anh thưa cùng Chúa Giêsu với tất cả lòng mình.
Bạn có cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc, tự do vì đời sống của mình không? Hay bạn cảm thấy gò bó, bực bội, bị hạn chế vì những điều buộc phải làm như dự lễ, đọc kinh, giữ các giới răn của đạo Công giáo..?
1.2. Nhìn rõ Đức Giêsu
Anh nhìn rõ Đức Giêsu, vị Thiên Chúa cụ thể, nguồn sáng cụ thể, nguồn tình yêu cụ thể. Nhưng đồng thời cũng nhận ra có một đám đông rất lớn gồm những người đói khổ, tật nguyền, tội lỗi vây quanh Người để xin Người cứu giúp. Anh quan sát những hành động của Chúa Giêsu như rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ, tha thứ tội lỗi, đón nhận và chúc lành cho trẻ thơ, tranh luận với những người biệt phái và luật sĩ, đồng cảm với những người đau khổ, điều khiển được cả vạn vật, thậm chí cho người chết sống lại và cả những lúc Người cầu nguyện với Chúa Cha.
Anh hiểu rằng không ai giống như Giêsu. Anh bị cuốn hút vào Người, say mê Người và từ thâm sâu tiếng lòng thôi thúc anh “Hãy bước theo Người” vì chỉ có Giêsu mới có thể đáp ứng những mơ ước cao xa của anh, hơn cả việc Người chữa lành cho anh.
Bạn có nhìn rõ Đức Giêsu và hành động của Người đang thực hiện quanh bạn không? Hành động nào làm bạn xúc động hơn cả? Hay bạn không thấy gì về Đức Giêsu?
Bạn có nghe được tiếng lòng thôi thúc bạn đi theo Đức Giêsu không? Vì sao bạn chưa nghe được?
1.3. Chúng tôi tin
Anh nhìn rõ có nhiều người tin vào Đức Giêsu giống như anh. Họ lập thành một cộng đồng vây quanh Đức Giêsu và luôn đi theo Người để hành động theo sự chỉ dẫn của Người. Họ được gọi là các tông đồ, các môn đệ của Đức Giêsu. Họ lắng nghe lời Người giảng dạy, giúp Người phân phát bánh cá cho dân chúng, giúp những người tật bệnh, tội lỗi, bị quỷ ma ám ảnh đến gần Chúa Giêsu để Người chữa lành. Anh nhận ra rằng không phải chỉ một mình anh tin Đức Giêsu mà có rất nhiều người khác nữa, để cùng nói với Đức Giêsu: “Chúng con tin Thầy là Đấng phải đến cứu độ trần gian”.
Anh hiểu rằng: “Không ai có thể tin một mình, cũng như không ai có thể sống một mình. Không ai tự ban đức tin cho mình cũng như không ai tự ban sự sống cho mình. Người tin nhận được đức tin từ những kẻ khác và phải thông truyền đức tin đó cho những người khác. Tình yêu của chúng ta đối với Đức Giêsu và đối với tha nhân, thúc giục chúng ta nói về Đức tin của mình cho những người khác” (x. GLHTCG, số 166). Chính vì thế, anh đã hoà mình vào cộng đồng những người tin Chúa Giêsu đề hình thành nên Giáo Hội của Người. Lòng tin của anh hoà nhập vào đức tin của Hội Thánh Chúa (x. GLHTCG, số 168).
Nếu không có những người đã tin vào Đức Giêsu trước anh rồi loan tin cho anh về Đức Giêsu thì anh cũng chẳng thể nào tìm gặp Đức Giêsu và tin vào Người. Vì thế, “tin là một hành vi có chiều kích Hội Thánh. Đức tin của Hội Thánh có trước, sinh ra, nâng đỡ và dưỡng nuôi đức tin của chúng ta. Hội Thánh là Mẹ của mọi tín hữu” (x. GLTHCG, số 181).
Bạn có bao giờ nhìn vào cộng đồng mình đang sống (gia đình, giáo xứ, giáo phận, giáo hội toàn cầu) để thấy nhiều người tin vào Đức Giêsu như bạn?
Bạn có bao giờ thấy mình đang được nâng đỡ bằng lời cầu nguyện, sự hy sinh và đời sống của 1 tỷ 200 triệu người Công giáo trên thế giới không?
Bạn có đóng góp gì cho cộng đồng này với ý thức và tình yêu. Hay bạn không bao giờ nghĩ tới chiều kích cộng đồng của đức tin bạn?
1.4. Cộng đồng vây quanh Đức Giêsu
Ngoài các tông đồ và môn đệ, Bartimê quan sát kỹ hơn cộng đồng lớn lao đang chen chúc nhau vây quanh Đức Giêsu. Cộng đồng hỗn độn này gồm đủ mọi hạng người: già trẻ, lớn bé, nam nữ, giàu nghèo, khoẻ mạnh, đau yếu, người Do Thái cũng như người nước ngoài, người đạo đức như các tư tế, luật sĩ và những người tội lỗi như thu thuế và các cô gái điếm.
Ai cũng bị hút vào Giêsu theo một lực lạ lùng, dù rằng có cả những người chỉ để bắt bẻ giáo lý hoặc giăng bẫy Giêsu về một sơ hở chính trị nào đó. Nhiều người chỉ mong chạm đến gấu áo Giêsu để được chữa lành vì có một sức mạnh kỳ diệu tự nơi Người phát ra có thể chữa lành, nếu họ có lòng tin.
Giêsu trở thành cái gì hết sức thiết thân cho tất cả những người đó. Người đem lại tấm bánh con cá cho người đói, sự chữa lành cho người bệnh, sự tự do cho người bị ma quỷ kiềm chế, ánh sáng cho người mù, sự bình an cho người bị rối loạn tinh thần, công lý cho người bị áp bức, tình yêu cho người đang thù hận, sự tha thứ cho người tội lỗi, ân phúc Thiên Chúa cho người thiện tâm. Đây là điều anh đang mong ước vì muốn mình sống hữu ích cho cộng đồng nhân loại cũng như cho dân tộc của anh. Anh muốn được trở nên tất cả cho mọi người như Chúa Giêsu. Vì thế, Bartimê quyết tâm đi theo Đức Giêsu để cứu giúp đồng loại.
Bạn có bao gười quan tâm đến cộng đồng đang sống quanh bạn không? Họ là những ai? Giàu hay nghèo, đẹp hay xấu, đạo đức hay tội lỗi?
Bạn có ưu tư về dân tộc của mình không?
Bạn có biết rằng trong số 90 triệu dân hiện nay, đang có 16 triệu người nghèo cùng cực không kiếm nổi 20.000 đồng 1 ngày; 6,7 triệu người khuyết tật về thể lý, hơn 10 triệu người khuyết tật về tinh thần vì nạn phá thai, nghiện ngập đủ loại; 2 triệu trẻ mồ côi; hàng trăm ngàn người bị áp bức không được hưởng tự do và công lý?
Bạn có ưu tư về Giáo hội Việt Nam không? Tỷ lệ người Công giáo nước ta chỉ mới chiếm 7% dân số và suốt từ 127 năm qua (từ 1885) tỷ lệ này vẫn giữ nguyên?
Bạn có ước mơ gì để cứu giúp những người khốn khổ quanh bạn? Hay bạn bằng lòng với những gì mình có và sống an thân, ẩn mình vào đám đông như một con số vô nghĩa trong lòng nhân loại và dân tộc này?
Chính vì tình thương cứu độ của Đức Giêsu và đức tin của Bartimê mà anh đã sáng mắt sáng lòng và quyết tâm bước theo Đức Giêsu để hoàn thành hành trình đức tin của mình. Kể từ giây phút lên đường với Đức Giêsu, hành trình đức tin mới bắt đầu, cuộc đời của anh mới có ý nghĩa: vì anh trở thành người thuộc về Đức Giêsu Kitô, anh mới thật sự là Kitô hữu.
2. Hành khất Kitô
2.1. Đức Giêsu kêu gọi anh trở thành hành khất như Người
Bartimê đã từng ăn mày, sống nhờ sự giúp đỡ của người khác. Hồi anh bị mù, anh vui sướng khi nghe tiếng những đồng xu rơi vào bát ăn xin của mình hay khi được người ta dúi vào tay anh miếng bánh, bát cơm, nhiều khi chỉ là cơm thừa canh cặn. Có người cho với lời an ủi ấm lòng, nhưng cũng không thiếu người chỉ muốn tống cổ anh đi cho khuất mắt bằng những lời mắng chửi hay nói xéo ác độc.
Bây giờ được sáng mắt rồi, anh lại nhận ra Đức Giêsu mới thật là người hành khất lạ lùng và muốn anh bước theo Người. Người nói với Phêrô, Andrê, Gioan, Giacôbê là những ngư phủ người khác: “Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các bạn thành những ngư phủ trong biển đời để các bạn lưới người như lưới cá”. Người nói với chị em Matta và Maria, với Madalena, với 70 môn đệ và với chính anh: “Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các bạn biết chinh phục và cứu độ con người”. Người ban cho các tông đồ, 70 môn đệ quyền năng và ân sủng để đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ (x. Mc 16,16-22). Anh muốn trở thành một hành khất như Đức Giêsu.
Đức Giêsu là người hành khất phi thường, vì Người cũng rong ruỗi trên mọi nẻo đường xứ Palestine và trên khắp thế giới giống như anh. Người cũng sống nhờ lòng tốt của mọi người giống như anh vì Người đón nhận các bữa ăn người ta chia sẻ cho Người và các môn đệ… Có người mời với lòng kính trọng như để đền ơn sau khi được chữa lành; nhưng cũng có người cho mà lòng không vui, ăn mà lòng không thích vì nghĩ rằng thà để dành tiền cho người nghèo khó tốt hơn. Người đón nhận sự đóng góp và tặng ban của mọi người để chia sẻ cho những ai cần đến dù rằng Người là Thiên Chúa giàu có vô song và dư sức để làm ra của cải, cơm bánh nuôi sống mọi người. Người đã tự nguyện trở nên nghèo khó vì muôn loài để lấy cái nghèo của Người mà làm cho muôn loài trở nên giàu có (x. 2Cr 8,9; Pl 2,6-11).
Đức Giêsu có thể được gọi là người hành khất ăn xin tình yêu vì Người là Ngôi Lời Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình Yêu (x. 1Ga 4,16) và chỉ có tình yêu của con người là thứ mà Thiên Chúa cần đến vì Thiên Chúa không thể bắt ép con người yêu Ngài cũng như không thể bắt ép con người đón nhận tình yêu của Ngài.
2.2. Chọn Đức Giêsu làm Bang Chủ Hành Khất Kitô
Bartimê thấy Đức Giêsu thu tập môn đệ để dạy bảo họ về tình yêu Chúa Cha, về đời sống nghèo khó, để biết sử dụng Lời Chúa như vũ khí thiêng liêng, ban cho họ quyền năng và ân sủng của Người để cứu giúp những người nghèo khổ, yếu kém trong xã hội. Đức Giêsu hành xử như một bang chủ của Cái Bang thời xưa và Bang Hành khất Kitô thời nay.
Trong lịch sử chiến đấu của nhiều dân tộc, nhất là của Trung Hoa, các người ăn xin họp thành Cái Bang. Họ là những người tự nguyện sống thanh bần, giàu lòng nhân ái, tinh thông võ nghệ để diệt gian trừ bạo, hành hiệp giang hồ. Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người từ cõi chết sống lại, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm10,8-13).
Việc hành hiệp giang hồ, hàng ma phục linh không phải là chuyện võ hiệp tưởng tượng của các đệ tử Cái Bang trong các tiểu thuyết võ hiệp, hay trong những trò chơi trực tuyến (game online) mà nhiều bạn trẻ đang chơi. Nhưng đó là sứ mạng chiến đấu của những người Hành khất Kitô thời nay để bắt chước Bang Chủ của mình là Đức Giêsu Kitô trong cuộc chiến đấu thiêng liêng của đời mình.
Bạn có chơi trò chơi trực tuyến nào không? Nhân vật nào bạn thích? Bạn có biết sử dụng Lời Chúa như một thanh gươm 2 lưỡi sắc bén (x. Th 4,12; Ep 6,17) để giải phóng con người, chiến thắng quỷ dữ, ma tà không?
Bạn có bao giờ xem những phim ảnh, sách báo đồi truỵ khiến tinh thần bị nhiễm độc? Bạn làm gì để chiến thắng cơn nghiện trò chơi, phim ảnh đồi truỵ?
2.3. Hành trình đức tin
Hành trình đức tin của Bartimê bắt đầu ngay khi anh bước theo Đức Giêsu như Bang Chủ của đời mình, vì từ khi được sáng mắt sáng lòng, anh chỉ còn sống “nhờ Người, với Người, trong Người và vì Người” mà thôi.
Anh bắt đầu sống theo tinh thần nghèo khó của Người: ăn mặc giản dị, làm việc hăng say, nhất là học những kỹ năng sử dụng thành thạo lưỡi gươm Lời Chúa. Anh liên kết với các tông đồ và môn đệ thành từng nhóm để chuẩn bị cho dân chúng đón nhận Đức Giêsu, để bảo vệ nhau chống lại sức cám dỗ của vật chất, của tệ nạn xã hội và của đời sống hưởng thụ ích kỷ đang phổ biến khắp nơi.
Anh hiểu rằng hành trình đức tin của mình không phải thực hiện trên những con đường rộng rãi, bằng phẳng với cây cao bóng mát vì đời người là một con đường dài với nhiều đoạn khác nhau đòi anh phải cố gắng liên lỉ. Anh biết có những lúc mình sẽ gục ngã vì kiệt sức, vì những hố sâu trên đường, vì mưa nắng bất chợt, vì cả những tai nạn do sự bất cẩn của người khác. Nh7ng anh quyết tâm theo Đức Giêsu và tin vào quyền năng, sức mạnh Thánh thần Người ban cho anh để hoàn thành cuộc hành trình. Dù chịu nhiều gian nan thử thách, nhưng mỗi giây phút sống, anh đều cảm nhận được hạnh phúc và tình yêu của Người. Anh mường tượng mình sẽ còn phải chết nhục nhã như Người trên thập giá như Người đã báo trước về cái chết của mình, nhưng sau đó là cuộc sống vinh quang muôn đời mà anh hằng mơ ước.
Bạn có thể nhìn lại hành trình đức tin của mình với những giai đoạn khác nhau và chia sẻ cho bạn bè không?
2.4. Chia sẻ cảm nghiệm về Đức Giêsu Kitô
Các bạn vừa xem những đoạn video của cuốn Sứ Điệp Loài Hoa. Đây là tập sách nhỏ tôi vâng lệnh Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình để viết cho các bạn trẻ. Cuốn sách đã được các bạn nồng nhiệt đón nhận, tạo nên cơn sốt thời đó vì trong vòng 2 tháng 25.000 cuốn đã bán hết. Vì thế nó lọt vào tầm ngắm của vài người có trách nhiệm và có lẽ vì bài Hoa Bất Tử nên đã bị liệt vào danh mục sách cấm và không được phép tái bản, dù Đức Tổng Phaolô đã viết đơn xin tới 3 lần.
Tuy nhiên tôi cảm nghiệm được tình yêu và quyền năng Chúa khi gặp một người bệnh, sau khi Chúa chữa lành cho ông, chính ông đã giúp cho cuốn sách được tái bản. Chia sẻ với các bạn kinh nghiệm này để thấy hành trình đức tin của mỗi người chúng ta thật diệu kỳ. Càng gắn bó với Chúa Giêsu, chúng ta càng có khả năng biến đổi đời sống mình cũng như đời sống người khác.
Kết luận
Tuần tĩnh tâm “Hành trình Đức tin” này chỉ là dịp để mời gọi bạn tìm về gặp gỡ lại Thiên Chúa, gặp gỡ Đức Kitô và anh chị em trong cộng đồng Giáo Hội để cùng xướng lên “tôi tin”, “chúng tôi tin”.
Chúng tôi cũng tha thiết mời gọi bạn tham dự vào một trò chơi lớn để trở thành “người hành khất Kitô” trong hành trình đức tin này. Bạn có thể xem chi tiết về trò chơi trên trang Web: www.hanhkhatkito.org.
Phụ lục
Hành khất ca
Mỗi ngày sống ta như người hành khất
Nhận muôn ơn từ Thiên Chúa yêu thương
Với bát ăn xin vui vẻ lên đường
Đem chia sẻ cho những ai thiếu thốn
Đường thánh giá tình yêu như hoà trộn
Đường khó nghèo ta tiếp bước Giêsu
Bỏ đam mê, danh lợi, bỏ hận thù
Thành con Chúa qua cuộc đời tự huỷ (x. Pl 2,7-8)
Gươm thần diệu ta giấu trong tâm trí
Lời Tin Mừng ta vận khí phóng ra (x. Ep 6,17)
Sống công minh, diệt hết mọi gian tà
Biết hoà hợp với muôn người muôn vật.
Theo Đức Kitô sống đời hành khất
Thôi thúc người biết quảng đại yêu thương
Sống hiên ngang danh lợi ta coi thường
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến.
Bài 5
Xác tín trọn vẹn vào Đức Giêsu Kitô
Lời mở
Thượng hội đồng nhắc chúng ta rằng: “Theo sách Tông đồ Công vụ, người ta không thể dạy điều gì mình không tin hay không sống. Người ta không thể truyền đạt Phúc Âm khi không sống rập theo khuôn Phúc Âm hay không tìm thấy ý nghĩa, sự thật và tương lai của đời mình dựa trên Phúc Âm”. Giống như các tông đồ, ngày nay chúng ta cũng được thông phần vào sự sống hiệp thông của Chúa Cha, trong Chúa Giêsu, nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng biến đổi và ban sức mạnh để chúng ta không chỉ truyền đạt đức tin mình sống mà còn khơi dậy sự đáp ứng nơi những người mà Thánh Thần đã chuẩn bị bằng sự hiện diện và hành động của Ngài (x. Cv 16,14; TLLV, số 91).
Như thế, điều kiện cần thiết nhất cho người thừa sai là niềm xác tín trọn vẹn vào Đức Giêsu Kitô và thở được Thần Khí của Người để biểu lộ và chia sẻ sự sống kỳ diệu của Thiên Chúa cho muôn người. Nhưng để có thể có được niềm xác tín đó, chúng ta phải loại bỏ những nghi ngờ và giải đáp được những thắc mắc về lời dạy của Chúa Giêsu trong các sách Phúc Âm, về những phép lạ như hành động cứu độ, nhất là về cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô mà nhiều phong trào và ý thức hệ đang đặt ra cho chúng ta. Trong tinh thần đó chúng ta sẽ tóm lược vài vấn đề và giải đáp chính yếu về Chúa Giêsu để tin tưởng trọn vẹn vào Người.
1. Những vấn đề nan giải về sự khác biệt trong các đoạn văn Phúc Âm
Ngày nay nhiều phong trào như “phong trào Giải Trừ huyền thoại cho Phúc Âm” khởi xướng bởi R. Bultmann, nhiều chủ trương của các nhà Thánh Kinh học đang chối bỏ hoặc giải thích những lời dạy, phép lạ, mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu theo hướng hoàn toàn trần tục. Người ta đưa ra những lý luận, mà nếu chúng ta không sáng suốt giải đáp, thì chính chúng ta cũng có thể đánh mất lòng tin yêu vào Đức Giêsu Kitô. Trong nhiều thế kỷ, anh em Cải Cách theo các hệ phái Tin Lành đã chủ trương “sola fides, sola Scriptura” (chỉ cần đức tin, chỉ cần Thánh Kinh) nhưng sau khi các nhà Thánh Kinh của họ trình bày những vấn đề nan giải trong Thánh Kinh, đặc biệt trong Tân Ước, nhiều người không còn sùng mộ Thánh Kinh nữa, chỉ giữ lại niềm tin và xem Đức Giêsu như biểu tượng thúc đẩy lòng tin của mình chứ không tin vào Người. Sự suy thoái này bắt nguồn từ những khác biệt khi so sánh các bản Phúc Âm với nhau.
Từ thế kỷ I đến thế kỷ XIX, người tín hữu chỉ có thể đọc những bản văn Thánh Kinh rời rạc nên không thể so sánh chúng với nhau. Nhờ những tiến bộ của ngành in ấn, xuất bản, dịch thuật trong một vài thế kỷ gần đây, nên tín hữu có các bản văn Thánh Kinh trọn bộ bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Từ đó, người ta đọc cẩn thận và so sánh các bản văn khác nhau, nhất là các Phúc Âm Nhất Lãm. Các nhà nghiên cứu Thánh Kinh nhận thấy có nhiều sự khác biệt giữa các Thánh Sử khi tường thuật các lời nói, hành động, sự việc, nhất là biến cố khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu. Chúng ta có thể đưa ra vài thí dụ tiêu biểu sau đây:
1.1. Lời nói
Thí dụ Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” trong bản Phúc Âm của thánh Matthêu và Marcô (x. Mt 16.24; Mc 8,34) trong khi Bản Phúc Âm của thánh Luca lại thêm chữ “hằng ngày” sau từ “thập giá mình” (Lc 9,23). Lời kinh “Lạy Cha” theo thánh Matthêu (x. Mt 6,9-13) khác với bản văn của thánh Luca (x. Lc 11,2-4). Tám mối phúc thật của Matthêu (x. Mt 5,3-12) cũng khác với Luca (x. Lc 6,20-22). Câu tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” trong Luca (x. Lc 9,18-24) khác với lời tuyên xưng ở miền Cêsarê Philipphê: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” trong Matthêu (x. Mt 16,13-20) và Marcô (x. Mc 8, 27-38). Vậy đâu là lời thật của Chúa Giêsu? Các Thánh sử có thêm bớt gì vào lời dạy của Chúa?
1.2. Hành động
Nếu so sánh các phép lạ, dường như có sự khác biệt giữa các Thánh Sử: thí dụ trong bản văn của Matthêu ông Giaia xin Chúa cho con gái mình vừa mới chết được sống lại (Mt 9,19), khác với Mc 5,22-23 và Lc 8,42: Cô bé chưa chết lúc ông Giaia gặp Chúa. Hoặc trong Mt 21,19: cây vả bị Chúa chúc dữ lập tức héo khô, còn trong Mc 11,14-20: cây đó héo vào ngày hôm sau. Hay trong Mt 9,20-22: Chúa Giêsu ý thức việc chữa người phụ nữ băng huyết khác với sự kiện ở Mc 5,27-34.
Khi nghiên cứu các phép lạ của Chúa Giêsu trong các bản văn của Mt (14,13-21; 16,32-39), Mc (6,30-44; 8,1-10), Lc (9,10-17), Ga (6,5-15), nhất là phép lạ hoá bánh ra nhiều, người ta ghi nhận có sự gia tăng về con số: từ 4.000 người ăn (Mc), 4.000 đàn ông không kể đàn bà và trẻ con (Mt), lên 5.000 người rồi đến 5.000 (Mc, Lc, Ga) đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con (Mt). Chúa chữa 1 người mù tên Bartimê ở Jericho (x. Mc 10,46-52Lc 18,35-43) hay 2 người mù ở Jericho (x. Mt 20, 29-34; )?
1.3. Cuộc tử nạn
Chẳng hạn như việc xức dầu, Thánh Gioan ghi nhận việc xức dầu thơm xác Chúa Giêsu thực hiện vào chiều thứ Sáu (x. Ga 19,39-40), trong khi Phúc Âm Nhất Lãm lại nói đến chuyện các phụ nữ định xức dầu vào sáng Chúa Nhật (x. Mt 28,1; Mc 16,1; Lc 24,1), nhưng khi các bà mang dầu đến thì hòn đá che cửa mộ đã lăn sang một bên. Nếu đã chôn táng xác chết rồi thì làm sao lại xức đầu nhiều ngày như thế?
1.4. Cuộc Phục sinh
Vào buổi sáng ngày Chúa Giêsu sống lại, các phụ nữ tìm đến mộ Chúa. Các Thánh Sử kể tên của các phụ nữ đến mộ Chúa Giêsu mỗi người một khác. Matthêu (x. 28,1) nói 2 bà Maria trong đó có bà Maria Magdala, Marcô nói tới 2 bà Maria và Salômê (x. Mc 16,1), Luca nói đến 2 bà Maria, bà Gioana và nhiều phụ nữ khác (x. Lc 24,10) trong khi Gioan kể chỉ có một mình Maria Magdala (x. Ga 20,11-18).
Các bà nhìn thấy 1 Thiên Thần (x. Mt 28,2-7; Mc 16,5-7), hoặc 2 Thiên Thần (x. Lc 24,4-5; Ga 20,11-13), một vị ngồi đằng đầu , một vị ngồi đằng chân.
Địa điểm Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ cũng là một vấn đề gây tranh cãi vì nếu các môn đệ nghe theo lời các phụ nữ đi về Galilê (x. Mt 28,10; Mc 16,7) vào ngay buổi sáng ngày Chúa nhật thì họ không thể nào gặp Chúa vào buổi chiều hôm đó trong nhà Tiệc Ly ở Giêrusalem (x. Ga 20,19-23) vì Galilê cách Giêrusalem khoảng 160 cây số, nếu có đi bộ cũng phải mất nhiều ngày.
Tất cả những khác biệt đó đã làm cho những người đọc và nghiên cứu Kinh Thánh đặt những câu hỏi: tại sao lại có sự khác biệt đó ? Các khác biệt đó do tác giả Thánh kinh đem vào, do cộng đồng đón nhận Phúc Âm tác động hay do Chúa Thánh Thần linh hứng ? Người ta bắt đầu giải thích bằng nhiều quan niệm và lý lẽ khác nhau.
2. Giải thích một số sự khác biệt trong Phúc Âm theo khoa văn hình sử
Kể từ khi có các sách Phúc Âm cho đến thế kỷ XX, người tín hữu Kitô, nhất là Công giáo, luôn tin tưởng rằng Phúc Âm là những sách được Chúa Thánh Thần linh hứng nên các Thánh Sử viết đúng những gì Chúa mạc khải, không thêm bớt, không sửa đổi. Vì thế sách Phúc Âm có giá trị tuyệt đối, không thể sai lầm và kể đúng sự thật về sự kiện, cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, trong một hai thế kỷ gần đây, khoa Thánh Kinh học đã có những tiến bộ vượt bậc khi áp dụng những nguyên tắc nghiên cứu văn học cho các bản văn Thánh Kinh, vì dù sao, xét về phương diện nhân loại, Phúc Âm cũng là những áng văn chương do con người viết nên. Những nhà nghiên cứu Kinh Thánh đã giải thích các điểm khác biệt giữa các Thánh Sử theo các nguyên tắc của khoa văn hình sử – khoa học lịch sử hình thành văn chương. Họ giải thích rằng: các khác biệt đó bắt nguồn từ mấy yếu tố sau:
– Do mỗi Thánh sử cho ý hướng thần học riêng nên có thể sắp xếp sự kiện, lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thay đổi các con số, tên tuổi người liên quan, nơi chốn xảy ra sự kiện, hoặc thêm vào vài từ muốn nhấn mạnh trong lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
– Do cộng đồng đón nhận Phúc Âm có những nét đặc thù. Thí dụ Matthêu dùng từ “Nước Trời” vì người Do Thái tránh kêu tên Thiên Chúa trong khi 3 Thánh Sử khác lại dùng từ “Nước Thiên Chúa” mà không sợ phạm huý.
– Do định luật truyền miệng: các bản văn Phúc Âm là kết quả của những bài giảng truyền khẩu trong các cộng đồng giáo hội khác nhau, nên càng truyền miệng lâu từ người này sang người nọ thì con số càng ngày càng lớn, thí dụ như số người ăn, số thúng bánh vụn còn thừa lại trong các phép lạ hoá bánh ra nhiều, số thiên thần, số người được chữa lành…
3. Những hệ quả từ những lời giải thích khác nhau
Khi áp dụng cách cứng nhắc nguyên tắc của khoa văn hình sử, các nhà nghiên cứu Thánh Kinh cho rằng cùng một sự kiện xảy ra hay cùng lời giảng của Chúa Giêsu nhưng thánh Matthêu, Marcô, Luca, Gioan viết mỗi người một cách khác nhau do 3 yếu tố trên đây tác động. Vì thế người ta không thể phân biệt đâu là sự kiện thật sự xảy ra, đâu là lời nói thật sự của Chúa Giêsu, đâu là các phần thêm vào từ phía con người. Do đó, Phúc Âm bây giờ chỉ còn là sách đạo đức đặc biệt vì kể lại cuộc đời của Đức Giêsu, chứ không phải được Chúa Thánh Thần linh hứng.
Có người đã nghĩ rằng nên tìm về bản văn gốc đầu tiên bằng tiếng Do Thái cổ của thánh Matthêu, nhưng bản này đã mất, để tìm sự chính xác, sau đó tới bản văn của Marcô và của thánh Matthêu viết bằng tiếng Hy Lạp vào khoảng năm 55-60, rồi đến bản văn của thánh Luca xuất hiện vào khoảng năm 65, sau cùng vào khoảng năm 90 mới có bản văn của thánh Gioan.
Hơn nữa, khi nhà thần học Tin Lành Rudoft Bultmann (1884-1976), vào những năm 1940-1960, chủ trương giải trừ những huyền thoại ra khỏi Phúc Âm, như cuộc sống lại và những phép lạ của Chúa Giêsu, để cho con người thời nay bị ảnh hưởng của khoa học thực nghiệm dễ đón nhận lời Chúa hơn, thì nhiều anh em Tin Lành mất hẳn lòng tin vào Thánh Kinh dù trước đây họ hoàn toàn tin tưởng và lấy Thánh Kinh làm tiêu chuẩn cho đời sống. Nguy hiểm hơn nữa là một số nhà thần học Thánh Kinh Công giáo cũng bị ảnh hưởng bởi chủ thuyết này và đang dạy trong các chủng viện, đại học. Chính vì thế chúng ta muốn suy niệm bài này để tìm lại niềm xác tín hoàn toàn vào Chúa Giêsu Kitô.
4. Lập trường của Giáo Hội Công giáo
Giáo Hội Công giáo rất trân trọng những đóng góp giá trị của các nhà nghiên cứu Thánh Kinh, của các khoa học xã hội nhân văn liên quan đến Thánh Kinh cũng như cố gắng giải thích những vấn nạn Thánh Kinh theo những khám phám đúng đắn của các khoa học này. Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế tín lý về mạc khải Dei Verbum, số 12, đã nói rõ về các điểm này: “Vì trong Thánh Kinh, Thiên Chúa đã nhờ loài người và dùng cách nói của loài người mà phán dạy, nên phải tìm hiểu chủ ý của Thánh Sử, xét đến các thể văn khác nhau, chú ý đến hoàn cảnh thời đại, văn hoá và cách diễn tả của từng Thánh Sử…”. Hơn nữa “Thánh Kinh đã được viết ra bởi Chúa Thánh Thần nên cũng phải được đọc và giải thích trong Chúa Thánh Thần…và tuỳ thuộc vào phán quyết của Giáo Hội vì Giáo Hội được Thiên Chúa giao cho sứ mệnh và chức vụ gìn giữ và giải thích lời Chúa”.
Trong các sách Phúc Âm, Chúa Thánh Thần là tác giả trực tiếp và các vị Thánh Sử cũng là tác giả thật sự. Các ngài được Chúa dùng để ghi chép lại các lời dạy và sự kiện của Chúa Giêsu để truyền lại cho chúng ta. Mỗi vị Thánh Sử có ý hướng thần học riêng và viết Phúc Âm cho những cộng đồng khác nhau. Vì thế, các ngài đã chọn những biến cố, ghi lại từng lời của Chúa Giêsu trong những hoàn cảnh khác nhau cho phù hợp với cộng đồng mà mình gửi đến, phù hợp với ý hướng thần học mà Chúa soi sáng, nhưng chính các ngài không làm sai, bỏ sót hay biến đổi một lời, một chữ nào.
Lý do là vì uy thế tối thượng của Chúa Giêsu và uy tín tối cao của cộng đoàn Giáo Hội không cho phép các Thánh Sử sửa đổi, thêm thắt theo ý riêng mình. Hơn nữa, nếu hành động như thế họ còn xúc phạm đến Chúa Thánh Thần, và chắc chắn cộng đồng Dân Chúa sẽ loại trừ những nguỵ thư không đúng với sự thật.
5. Những đường hướng giải đáp các vấn nạn
Chúng tôi xin giới thiệu những đường hướng giải đáp các vấn nạn và mong ước các nhà nghiên cứu Thánh Kinh hay thần học bổ khuyết cho những cố gắng của chúng tôi.
5.1. Giải đáp về lời rao giảng của Chúa Giêsu. Chúng ta cứ thử tưởng tượng: Chúa Giêsu rao giảng Phúc Âm 3 năm, khoảng 1.000 ngày, mỗi ngày vài giờ, thì tổng cộng Người rao giảng có đến vài ba ngàn giờ. Nhưng nếu ta thử ghi âm toàn bộ những lời Chúa Giêsu nói trong 4 cuốn Phúc Âm, ta thấy chỉ kéo dài khoảng 1 giờ, nghĩa là các Thánh Sử chỉ mới ghi được một phần ngàn những lời của Chúa. Chúa Giêsu nói rất nhiều, Người có thể lặp lại một phần giáo lý Người giảng tuỳ theo mỗi hoàn cảnh khác nhau, mỗi đối tượng nghe khác nhau, nên mỗi vị Thánh Sử đã chọn ghi những lời của Chúa chứ không phải thay đổi lời Người theo ý mình. Bốn vị Thánh Sử ghi những lời Chúa trong các trường hợp khác nhau như vậy để chúng ta có thể áp dụng trong những hoàn cảnh đổi thay của đời sống tuỳ theo sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần.
5.2. Giải đáp về các phép lạ của Chúa Giêsu.
Điều lầm tưởng lớn nhất là người ta nghĩ Chúa Giêsu chỉ làm vài chục phép lạ vì toàn bộ Phúc âm chỉ có khoảng 30 bài tường thuật về phép lạ trong Phúc Âm Nhất lãm và 5 bài trong Phúc Âm của Thánh Gioan. Cộng thêm 25 bài thuật trình chữa bệnh, trong đó có 7 bài lồng thêm việc trừ quỉ để khỏi bệnh, và khoảng 10 bài về hành động của Đức Giêsu trên vạn vật. Đây là các bài tường thuật chi tiết với hoàn cảnh rõ ràng. Mục đích các bài này có tính chất dạy giáo lý để khơi dậy lòng tin vào Đức Giêsu. Chúng ta tạm gọi các bài đó là văn loại chính.
Khi người ta so sánh các bài này với nhau, nhất là trong tác phẩm nổi tiếng Synopsis Quattuor Evangeliorum bằng tiếng Hy Lạp của Kurt Aland, đã được Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch ra tiếng Việt là Đối Chiếu Bốn Sách Tin Mừng, xuất bản năm 2004, nhiều người tưởng lầm rằng Chúa Giêsu chỉ làm một phép lạ nào đó nhưng được các Thánh sử ghi lại cách khác nhau, chứ không nghĩ rằng Chúa Giêsu có thể đã thực hiện hàng ngàn, hàng vạn phép lạ trong 3 năm hoạt động của Người. Điều này được chứng minh qua các văn loại phụ.
Tuy nhiên, người ta lại quên văn loại phụ: gồm những lời tóm tắt tổng quát, kể cách chung chung về hành động của Đức Giêsu. Thí dụ như: “Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ…” (Mc 1,32.34; 3,10-12; 6,55-56; Mt 9,35.14,14; 15,30-31; 19,2; 24,24; Lc 5,15-17; 7,21). Rồi ta còn phải kể thêm các lời ám chỉ: “Người không thể làm được phép lạ nào tại đó” (Mc 6,5) hoặc ghi lại phản ứng của người không tin: “Hêrôđê tin Đức Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại vì Người làm nhiều phép lạ” (Mc 6,14-16), các ghi nhận về hành động cứu độ của Chúa Giêsu (x. Mc 15,31; Mt 9,34; 10,25; 12,24; Lc 23,8 …), các lời đáp của Chúa Giêsu (x. Mt 11,5-6; 11,21-24; Mt 12, 25-29), các diễn từ ở Công vụ Tông đồ: Cv 2,22; 10,38…
Thí dụ: Nhiều nhà Thánh Kinh Công giáo nghĩ rằng Chúa Giêsu chỉ làm 1 phép lạ cứu chữa cho con gái ông Giaia, rồi các Thánh Sử kể mỗi người mỗi khác, miễn là nói rõ được hành động làm cho kẻ chết sống lại là chính, còn việc chết rồi hay chưa chết khi ông Giaia đến xin Chúa Giêsu chỉ là chi tiết nhỏ nhặt, không cần phải quan tâm! Hơn nữa vì các bản tường thuật phép lạ có mục đích giáo huấn về đức tin, chứ không phải giống như bản tường thuật thời sự của các phóng viên báo chí thời nay, nên không đòi sự chính xác nhất định nào.
Trái lại, chúng tôi cho rằng các Thánh Sử hoàn toàn tôn trọng từng chi tiết nhỏ mọn nhất, bảo đảm sự thật tuyệt đối về Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta có thể xác định điều đó vì phép lạ về con gái ông Giaia của mỗi Thánh Sử là hoàn toàn khác nhau. Tên Giaia là tên phổ biến ở nước Do Thái, còn chức vụ trưởng hội đường thì vào thời đó, nước Do Thái có hàng trăm hội đường, và có cả chục ông có con gái nhỏ. Chúng ta đừng lạ vì chỉ 12 tông đồ thôi cũng đã có 3 cặp trùng tên: Giacôbê, Simon, Giuđa (x. Lc 6,12-16).
Nhiều người chối bỏ phép lạ vì bị ảnh huởng bởi khuynh hướng giải trừ huyền thoại của ông Bultmann, nhưng Thượng Hội Đồng Giám mục 2012 yêu cầu chúng ta phải nhận ra: “Công trình Phúc Âm hoá của Chúa Giêsu gắn liền với 2 hoạt động: chữa bệnh và tha thứ…Và việc giải thoát khỏi quyền lực ma quỷ là 1 dấu chỉ rằng: “Nước Thiên Chúa đã đến giữa chúng ta” (Mt 12,28) và Tin Mừng, món quà cứu rỗi cho mọi người, dẫn đưa chúng ta vào 1 tiến trình biến đổi và thông phần vào sự sống của Thiên Chúa, Đấng đổi mới chúng ta ngày từ giờ phút hiện tại” (TLLV, số 29).
Một khi gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô và kết hợp mật thiết với Người, chúng ta sẽ thấy những phép lạ trở thành hoạt động thường xuyên của người thừa sai để bảo đảm cho lời rao giảng của chúng ta (x. Mc 16,17-20). Vì thế chúng tôi mạnh dạn chia sẻ với anh em câu chuyện chữa lành một người bệnh liệt tay do tai biến mạch máu não, liên quan đến cuốn sách nhỏ Sứ Điệp Loài Hoa, trong số hàng trăm bệnh nhân được Chúa Giêsu chữa lành trong mấy chục năm chúng tôi tiếp xúc với các bệnh nhân.
5.3. Giải đáp về biến cố Vượt Qua của Đức Giêsu
Một số vấn nạn liên quan đến cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu Kitô đã được chúng tôi trình bày rất chi tiết trong các bài “Đức Giêsu Kitô chịu chết” và “Các bằng chứng về Đấng Phục Sinh” trong tập sách “Cẩm nang Tân Phúc Âm Hoá”. Chúng tôi chỉ nhắc nhở những ai đang nghi ngại, chưa đặt trọn niềm tin vào Đức Giêsu rằng: nhờ khám phá mới đây về nền văn hoá của người Do Thái thời Chúa Giêsu, người ta thấy rằng tục lệ xức dầu thơm trên xác người chết diễn ra trong 3 ngày, nên cửa mộ chỉ đóng hờ bằng tảng đá lớn và cả 4 Thánh Sử đều ghi đúng sự việc xảy ra.
Việc nhìn thấy 1 hoặc 2 thiên thần không phải là kết quả phóng đại của luật truyền miệng nhưng là 1 sự thật: các Thánh Sử thấy sao nói vậy! Nếu nhìn từ ngoài vào trong mộ, thông qua cửa mộ chật hẹp, người ta chỉ thấy 1 thiên thần. Tuy nhiên nếu bước vào trong lòng mộ, người ta sẽ thấy hết được tảng đá dài, nơi đặt thi hài người chết trên đó, mới thấy được “2 thiên thần, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân” (Ga 20,12).
Danh sách các phụ nữ đến mộ theo thánh Luca là chính xác, nghĩa là có nhiều bà, rồi tuỳ vào cộng đồng đón nhận Bản Phúc Âm mà các Thánh Sử ghi rõ tên từng người hoặc tuỳ vào bài học gắn bó với Chúa Phục Sinh như Thánh Gioan ghi lại.
Những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh rất hợp lý và chúng ta có thể lập thành biểu đồ với thời điểm tương đối rõ ràng về 14 lần hiện ra của Đấng Phục Sinh. Dù các môn đệ có nghe theo lời các phụ nữ đến Galilê đi nữa, thì cuộc hiện ra ở Giêrusalem vào chiều Chúa nhật vẫn thực hiện được nếu chúng ta hiểu được bản chất cuộc sống lại của Đức Giêsu là 1 cuộc sáng tạo con người mới, không bị lệ thuộc vào vật chất, không gian và thời gian để sống bằng sức sống phi thường, kỳ diệu của chính Thiên Chúa. Nhờ khám phá ra 14 lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh chúng tôi cũng biên soạn thành Đường Ánh Sáng theo Thánh Ignatiô Loyola nhằm giúp cho đời sống đạo của người Việt Nam thêm những niềm vui và hy vọng để quân bình hơn thay vì chỉ đi Đàng Thánh Giá, suy niệm về cái chết, đau khổ và thử thách của Chúa Giêsu.
6. Giải đáp về anh em ruột của Chúa Giêsu
6.1. Vấn nạn về anh chị em ruột của Chúa Giêsu
Vấn nạn này cũng cần được giải đáp, nhất là trong cuộc đối thoại đại kết với các anh em thuộc các hệ phái Tin Lành, như THĐ GM 2012 nhắc nhở chúng ta ở số 72 và 125 của Tài liệu Làm việc. Vấn đề này đã gây tranh cãi trong nhiều thế kỷ giữa các nhà nghiên cứu Thánh Kinh Tin Lành và Công giáo về việc “Đức Giêsu có anh chị em ruột hay không?” vì Thánh Kinh đã nhiều lần nhắc đến “anh chị em ruột” của Chúa Giêsu trong các bản văn: “Ông này chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông lại không ở đây với chúng ta đó sao?” (Mc 3,31-35; 6,3; Mt 12,46-50; 13,53-58; Lc 8,19-21; 1Cr 9,5; Gl 1,19).
Thánh Kinh dùng từ “anh chị em ruột”, chứ không dùng từ thiếu xác định “anh em, chị em” như tiếng Việt vì có thể hiểu là anh chị em ruột va anh chị em họ. Do đó, các nhà Thánh Kinh Tin Lành kết luận rằng Đức Maria và thánh Giuse đã sinh thêm những người con khác và chối bỏ lòng sùng kính đối với các ngài. Theo họ, việc Đức Trinh Nữ Maria sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần mà không có yếu tố của người nam, được trọn đời đồng trinh… là những huyền thoại không thể có trong thời đại khoa học kỹ thuật này. Từ đấy nhiều người còn mất niềm tin vào chính Chúa Giêsu!
6.2. Câu trả lời từ phía Công giáo
Lời giải đáp của Giáo hội Công giáo được tìm thấy trong sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo số 500 như sau: “Hội Thánh vẫn luôn hiểu rằng những đoạn văn này không hề ám chỉ những người con khác của Đức Trinh Nữ Maria: ông Giacôbê và ông Giuse, “anh em của Chúa Giêsu” (Mt 13,56), thật ra là con của một bà Maria nào đó, là môn đệ của Đức Kitô (x. Mt 27,56), bà này được cẩn thận phân biệt là “bà Maria khác” (Mt 28,1). Đây là những người anh em bà con họ hàng gần, theo như cách nói quen dùng trong Cựu Ước (x. St 13,8; 14,16; 29,15…)”.
Chúng ta phải nói thật rằng: lời giải đáp này chưa thoả đáng đối với chính những người nghiên cứu Thánh Kinh trong nội bộ Giáo hội Công giáo và chưa thuyết phục được các anh em Tin Lành vì bản văn Thánh Kinh nhiều lần dùng từ “anh chị em ruột” của Đức Giêsu chứ không dùng từ nào khác. Hơn nữa nếu quy chiếu những người con như Giacôbê, Giuse, Giuđa, Simon vào 1 bà “Maria khác” thì việc quy chiếu này có vẻ gượng ép vì thánh Matthêu nhắc đến tên bà này có thể chỉ vì muốn phân biệt với bà Maria Magđala vừa được nhắc trước đó (x. Mt 27,61) hoặc với bà Maria, mẹ của một mình ông Giacôbê (x. Lc 24,10). Còn việc nhắc đến các đoạn trích dẫn Thánh Kinh Cựu Ước rõ ràng gượng ép vì nguyên ngữ Do Thái cổ cho phép dịch là bà con, họ hàng trong khi nguyên ngữ Tân Ước không cho phép hiểu như vậy. Kiểu giải thích này còn có thể gây ra sự hiểu lầm nguy hiểm vì một từ được Chúa Thánh Thần linh hứng lại không được hiểu đúng theo nghĩa chữ của nó, và người ta có thể áp dụng kiểu giải thích “quá rộng” này cho các từ khác thì sẽ gấy nhiều hiểu lầm. Vì thế từ “anh chị em ruột” chắc chắn mang ý nghĩa sâu xa hơn, ta cần tìm hiểu sâu rộng hơn thì mới có thể thuyết phục anh em Tin Lành.
6.3. Những gợi ý để giải đáp vấn đề
Chúng ta cùng xác tín trong đức tin Công giáo rằng: “Chúa Giêsu là người con duy nhất của Đức Maria. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng của Mẹ (x. Ga 19,26-27; Kh 12,17) trải rộng cho hết mọi người đã được Chúa Giêsu đến cứu độ. Người Con mà Mẹ sinh ra, Thiên Chúa đã đặt làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,29), tức là các tín hữu, mà Mẹ đã cộng tác vào việc sinh hạ và dạy dỗ họ với tình yêu từ mẫu” (x. CĐ. Vat. II, HC Lumen gentium, số 63; Sách GLHTCG, số 501). Chúa Giêsu được cưu mang trong lòng dạ trinh khiết của Đức Maria (x. Lc 1,35; Sách GLH TCG, số 437), “được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần, không có mầm mống nam nhân” (CĐ Lateranô, năm 649, canon 3, DS 503; Sách GLHTCG, số 496).
Những người được Thánh Kinh nhắc đến như là “anh chị em ruột” của Đức Giêsu, xét về huyết thống tự nhiên, chỉ là những anh chị em họ, bà con với Người vì Mẹ Maria và thánh Giuse có những người thân thuộc sống tại Nazareth. Những người này cũng đi theo Chúa Giêsu (x. Mc 3,31-33; Mt 12,46-50; Lc 8,19-21), có người trở thành môn đệ và có địa vị trong cộng đồng Giáo hội sơ khai (x. Gl 1,19).
Tuy nhiên, Thánh Kinh luôn dùng từ “anh chị em ruột” khi nhắc đến mối liên hệ huyết thống tự nhiên này với ý nghĩa siêu nhiên. Lý do là vì khi Ngôi Lời Thiên Chúa trở thành người là Đức Giêsu, đón nhận 1 thân xác như bất cứ con người nào, thì Người đã trở nên anh chị em ruột thịt của họ, để dẫn đưa họ vào sự hiệp thông với Chúa Cha trong 1 gia đình duy nhất của Thiên Chúa. Trong Đức Giêsu Kitô, mọi người đều là anh chị em ruột thịt của nhau vì cùng thuộc về một gia đình nhân loại duy nhất (x. Sách GLHTCG, số 355-360). Do đó, trong Thánh Kinh cũng như trong các lời chào của thánh lễ chúng ta đều gọi nhau là “anh chị em ruột” chứ không chỉ coi nhau là “họ hàng”.
Hơn nữa qua thể xác vật chất, Đức Giêsu còn liên kết với mọi thụ tạo trong vũ trụ này để trở thành người anh cả của chúng (x. Rm 8,29) vì “con người, nhờ chính điều kiện có thân xác của mình, quy tụ nơi mình những yếu tố của thế giới vật chất, cho nên nhờ con người, các yếu tố ấy đạt tới tuyệt đỉnh của chúng và có thể tự do dâng lời ca ngợi Đấng Tạo Hoá” (x. CĐ Vat.II, HCGaudium et Spes, số 14; Sách GLHTCG, số 364). Vì thế, Người chết để cứu độ tất cả. Vũ trụ cảm nhận được điều đó nên biểu lộ sự vui mừng qua việc xuất hiện ngôi sao (x. Mt 2,2-10), sự vâng phục qua các phép lạ Người làm trên vạn vật (x. Mc 4,37-41; 6,34-44; 6,45-52, Mt, 17,24-27; Lc 5,1-11; Ga 2,1-11), sự chia sẻ khi Người chết trên thập giá (x. Mt 27,45.51-53).
Nói cho cùng, thân xác chúng ta được cấu tạo bằng những nguyên tố vật chất Carbon-Hydro-Oxy-Nitơ như những thành phần chính cho mọi người, mọi vật. Mỗi ngày, chúng ta đưa những nguyên tố đó vào trong thân thể mình qua đồ ăn, thức uống, khí thở rồi chúng ta lại thải các chất ra để tạo nên thân thể cho muôn loài. Chúng ta hợp thành một thân thể lớn lao của toàn thể vũ trụ, trở thành anh chị em ruột thịt của nhau vì hình thành nên thân xác cho nhau. Thân xác Chúa Giêsu và Mẹ Maria cũng được cấu tạo bằng những thành phần đó.
Xin cho phép tôi đưa ra một minh chứng khoa học. Nhiều người không còn nhớ nổi con số và nguyên lý của nhà bác học Amedeo Avogadro (1776-1856): “Trong cùng một điều kiện nhiệt độ và áp suất, các khí khác nhau có cùng một thể tích sẽ chứa cùng một số nguyên tử hay phân tử như nhau. Số đó là N = 6,022 x 10 . 23”. Nếu 16 gram Oxy ta thở, hay 18 gram nước ta uống, chia đều cho 7 tỷ người đang sống trên trái đất này thì mỗi người được khoảng hơn 9 ngàn tỷ nguyên tử thật hay phân tử thật trong cơ thể mình.
Quả thật, trong thân xác ta đang có những nguyên tử, phân tử vật chất của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong cuộc trao đổi sinh tồn của vạn vật từng giây phút vì qua mấy chục năm sống của Chúa và Mẹ, thân xác chúng ta đã và đang giữ những nguyên tố vật chất đã từng hình thành nên con người của Chúa và Mẹ. Vì thế chúng ta rất tự hào là anh chị em ruột của Chúa Giêsu và con cái thật sự của Mẹ Maria, không phải chỉ về mặt tinh thần mà cả thể chất nữa. Chia sẻ với mọi người điều này, nhất là với anh chị em theo các hệ phái Tin Lành, Cải Cách, chúng tôi hy vọng anh chị em sẽ tìm lại được niềm tin yêu tuyệt đối vào Chúa Giêsu Kitô và vào Người Mẹ Thánh của chúng ta.
Lời kết
Sau khi tìm hiểu vài vấn nạn liên quan đến niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu Kitô chúng tôi hy vọng người thừa sai chúng ta đặt trọn niềm xác tín vào Đức Giêsu Kitô. Hành trình đức tin hay con đường dẫn ta tới gặp gỡ Chúa Giêsu luôn mời ta phải cố gắng bước tới bằng cách tìm hiểu, học hỏi. Mỗi bước tiến mới sẽ giúp ta nhìn rõ khuôn mặt Chúa Giêsu ở trong ta hơn, đồng thời cũng cảm nhận rõ hơn niềm hạnh phúc và ơn cứu độ để ta có thể chia sẻ Tin Mừng Giêsu cho người khác.
Câu hỏi gợi ý suy tư:
1. Bạn có thắc mắc hay nghi ngờ gì về lời dạy của Chúa Giêsu?
2. Bạn có nghi vấn gì về hành động của Chúa Giêsu?
3. Có phép lạ nào của Chúa Giêsu khiến bạn nghi ngờ?
4. Bạn có thắc mắc gì về cái chết và cuộc sống lại của Chúa Giêsu?
5. Bạn hãy lập thành một biểu đồ về các lần hiện ra của Chúa Giêsu trong ngày đầu tiên Người sống lại.
6. Nếu như anh em Tin Lành thắc mắc về từ “anh chị em ruột” của Chúa Giêsu trong Thánh Kinh, bạn sẽ đối thoại với họ như thế nào?
7. Bạn có tự hào là anh chị em ruột của Chúa Giêsu không ? Niềm tự hào này sẽ diễn tả thành hành động trong đời sống bạn như thế nào, nhất là đối với những người nghèo đói, tật bệnh quanh bạn?
Bài 6
Ra khơi để Tân Phúc Âm Hoá
Lời mở
Lệnh truyền ra khơi để thực hiện những cuộc chinh phục mới nhằm rao giảng Tin Mừng cho mọi người, mọi vật như đòi hỏi ta phải “đổi mới về nhiệt huyết, phương pháp và cách diễn tả Tin Mừng” (TLMV 45) trong những lĩnh vực có sự thay đổi sâu xa ở Việt Nam cũng như trên thế giới, nhất là lĩnh vực văn hoá, xã hội, kinh tế, khoa học, truyền thông như chúng ta đã tìm hiểu ở bài suy niệm đầu tiên vể bối cảnh của cuộc Tân Phúc Âm Hoá ( TPAH)
Những hoạt động gợi ý sau đây chỉ muốn làm sáng tỏ “ sự tương tác liên tục giữa Tin Mừng và đời sống cụ thể của con người, cả về mặt cá nhân và xã hội” đã được Đức Thánh Cha Phaolô VI nhấn mạnh trong thông điệp Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin Mừng, số 7, ngày 8-12-1975).
1. Để chuẩn bị ra khơi
Ra khơi là biết trước mình sẽ phải đối mặt với sóng to gió lớn trên biển đời để kéo chung với các bạn đồng thuyền những mẻ cá lớn, nên mỗi cá nhân thừa sai chúng ta cần chuẩn bị cho mình một trái tim dũng cảm, vượt qua mọi sợ hãi (x. Mt 14, 27 ; Mt 28,5), tràn đầy niềm vui từ Đức Kitô, “ sẵn sàng hy sinh mạng sống để nước Thiên Chúa được rao giảng và Giáo Hội được thiết lập giữa lòng thế giới” (x. TĐ. Loan báo Tin Mừng, số 80).
Chính Thánh Thần là ngọn gió thúc đẩy đưa chúng ta ra khơi để loan báo Đức Giêsu Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa “ tới tận cùng trái đất” (Cv 1, 8) (x. TLLV số 169) và cũng chính làn gió ấy hướng con thuyền chúng ta tới chỗ có cá chứ không phải chỉ dùng những hệ thống định vị luồng cá của kỹ thuật con người.
Chúng ta cũng chuẩn bị lương thực và nước uống cho mình trong cuộc hải trình này là chính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu và nguồn nước Thánh Linh của Người (x. Ga 7, 37-39). Đồng thời ta cũng chuẩn bị muối để ướp cá đánh được là chính chúng ta với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô (x. Mt 3,13; Mc 9,50). Hình ảnh biểu tượng Năm Thánh Đức Tin 2013 ở Việt Nam với con thuyền đang vượt sóng và cánh buồm căng gió hình tròn trong đó có chữ JHS (Jesus hominum Salvator: Đức Giêsu là Đấng Cứu độ muôn người) như gợi ý cho cuộc ra khơi này.
Những tấm lưới và thuyền là những phương tiện cần thiết phải mang theo lại là chính Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh như con thuyền của Người. Người nhắc bảo chúng ta: “ Khi đi đường, các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép…” (x. Lc 10, 1-9) vì một khi gắn bó với Đức Giêsu Kitô, Đấng chịu đóng đinh và Phục Sinh đang sống giữa chúng ta qua Thần Khí của Người, Đấng giúp chúng ta trải nghiệm về Thiên Chúa” (TLLV, 186), là chúng ta có tất cả ân sủng cần thiết, niềm hy vọng và bình an để hoàn thành sứ mạng TPAH của mình.
Nhiều vị truyền giáo ở những vùng vẫn nghĩ rằng: muốn loan báo Tin Mừng cho có hiệu quả thì mình phải có nhiều phương tiện vật chất như tiền bạc, thuốc men, kẹo bánh, quần áo cũ… để phân phát cho dân chúng nghèo khổ; mình phải trang bị hệ thống âm thanh tốt trong nhà thờ hay hội trường để lời rao giảng của mình mạnh mẽ và truyền cảm, mình phải tổ chức khám bệnh, dạy văn hoá, tổ chức nhiểu sinh hoạt vui chơi...Những hoạt động cho Chúa như thế rất cần thiết trong nhiều trường hợp, nhưng không bao giờ ta lại được quên một chuyện cần thiết trên hết mà cô Maria đã làm, khi ngồi dưới chân Chúa Giêsu và nghe Lời Người dạy, là gặp gỡ và kết hợp mật thiết với vị Chúa của mọi hoạt động (x. Lc 10, 38-42).
Chính những mối lo âu vật chất ấy nhiều khi lại làm hỏng chương trình truyền giáo vì nếu chúng ta cậy dựa vào những phương tiện tiền bạc, vật chất, thậm chí cả tài năng và ân sủng, chúng ta rất dễ thất bại trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Chúng ta nhớ lại hình ảnh của thánh Gioan Maria Vianey, cha sở họ Ars, ngài chẳng có nhiều tài năng, tiền bạc, vật chất mà cả nước Pháp bị cuốn hút theo ngài. Chúng ta nên tập trung tất cả sự chú ý vào Đức Giêsu và Thần Khí của Người, đến nỗi “không cần chào hỏi ai dọc đường” (Lc 10,4), còn tất cả mọi sự cần thiết khác Chúa sẽ lo cho chúng ta.
Đó là một vài điều cần thiết trong cuộc chuẩn bị ra khơi của chúng ta. Còn bây giờ chúng ta cùng “chèo ra chỗ nước sâu” để bắt đầu thả lưới. Ra khơi hay “chèo ra chỗ nước sâu” như muốn đòi hỏi ta những hành động truyền giảng Tin Mừng phải sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn, cực nhọc hơn và phải cùng làm việc với nhau, cùng kéo lưới chung với nhau thì mới có kết quả.
2. Những đề nghị hành động cho vài lĩnh vực cụ thể.
Những hành động gợi ý trong mấy lĩnh vực cụ thể sau đây chỉ là những ước mơ để diễn tả sự đổi mới về phương pháp, về cách biểu hiện của cuộc TPAH như Thượng Hội Đồng đã yêu cầu.
2.1. Lĩnh vực văn hoá
Chúng ta đều biết văn hoá là “tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong một giai đoạn nhất định của lịch sử qua sự tương tác với nhau, với thiên nhiên và vũ trụ vật chất”. Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, số 53, đã giải thích cho chúng ta biết văn hoá hầu như bao trùm mọi hoạt động có giá trị của con người trong đời sống trần thế.
Trước đây, cha ông chúng ta trong thời kỳ bị bách hại vài trăm năm trước đã đưa những giá trị của Tin Mừng như dân chủ, bình đẳng nam nữ, gia đình một vợ một chồng vào trong xã hội vì VN thời đó được tổ chức theo chế độ quân chủ độc tài chuyên chế, bất bình đẳng nam nữ, gia đình đa thê. Rồi khi xã hội VN hiện nay đã chấp nhận những giá trị đó thì người Công Giáo Việt Nam hình như ngủ quên trong chiến thắng, không còn rao giảng Tin Mừng và không giới thiệu được những giá trị mới của Tin Mừng cho đồng bào nữa.
Tin Mừng còn rất nhiều những giá trị mà dân tộc chúng ta đang cần, đặc biệt là những giá trị của Tám Mối Phúc Thật. Thí dụ như tinh thần nghèo khó trong một xã hội đang chạy theo vật chất và kiếm tiền bằng bất cứ thủ đoạn nào. Giá trị hiền hoà đối với con người VN hiện nay thiếu sự nhẫn nại và tha thứ, chỉ cần nhìn “đểu” hay vô tình “chửi tục” là người ta có thể rút dao ra chém nhau rồi. Giá trị khiêm tốn, ý thức sự hiện hữu của Thiên Chúa trong một xã hội muốn loại bỏ Ngài ra khỏi đời sống, ai cũng muốn đưa mình lên, muốn lôi kéo sự chú ý của người khác, không biết hối hận khóc lóc trước những tội lỗi đối với Thiên Chúa để được Người xót thương. Giá trị thảo hiếu đối với tổ tiên ông bà, cha mẹ và mở rộng ra cho hết mọi người để xây dựng hoà bình vì tất cả đều là con cái Thiên Chúa. Giá trị tôn trọng và bảo vệ sự sống dù mới chỉ còn là bào thai trong lòng mẹ trong một đất nước có 2 triệu ca phá thai mỗi năm, để không nuôi trồng, phân phối những nông sản, thuỷ sản, thực phẩm độc hại, buôn bán những hàng hoá nguy hại cho sự sống con người. Giá trị trong sạch trong tư tưởng cũng như trong hành động để dám loại bỏ những phim ảnh đồi trụy, những trò chơi kích dục, những kiểu quần áo quá hở hang, những lời nói tục tĩu làm mất phẩm giá con người và coi người khác như những đồ chơi để thỏa mãn dục vọng của mình trong một đất nước có 15 triệu người xem phim sex và chơi những trò chơi đồi truỵ mỗi ngày. Giá trị trung thực trong những lời nói và nhất là lĩnh vực truyền thông để đừng lừa bịp nhau và dẫn đưa người khác chối bỏ sự thật qua những thông tin của mình. Giá trị biết chia sẻ quảng đại với tất cả lòng thương xót cho những ai nghèo đói bần cùng. Giá trị dám hy sinh vì đại nghĩa, sẵn sàng bị thiệt thòi, bị bách hại khi phải tranh đấu để bảo vệ lòng tin đối với Thiên Chúa, khi phải chiến đấu để bảo vệ tự do độc lập cho dân tộc cũng như những giá trị chân thiện mỹ cho nhân loại.
Nhưng chúng ta đừng hô hào các giá trị Tin Mừng này như một khẩu hiệu. Các nhà thần học, tu đức học Việt Nam cần phải đào sâu các giá trị đó bằng những bài nghiên cứu; các nhà giáo dục và xã hội học cần phải chuyển chúng thành bài tập thực hành các kỹ năng sống theo các giá trị đó để các linh mục, tu sĩ, giáo lý viên truyền đạt lại cho các đoàn viên các hội đoàn Công giáo Tiến hành và tín hữu giáo dân thể hiện trong đời sống thường ngày như cha ông chúng ta đã làm trước đây thì mới trở thành bản sắc của người Công giáo trước khi trở thành bản sắc của người Việt Nam sau một vài thế hệ. Đó là cả một quá trình dài mà chúng tôi thiết nghĩ cần được Hội đồng Giám mục Việt Nam đưa vào chương trình làm việc trong các uỷ ban của Hội đồng.
Trước tình trạng con người đổi thay rất nhiều về lĩnh vực văn hoá (TLLV, số 43) , muốn gạt bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống qua phong trào tục hoá (TLLV, số 53) chúng ta sẽ nêu cao lòng tin vào Ông Trời, vào Chúa Trời của tổ tiên xưa, để dù ở đâu và làm việc một mình, người ta vẫn nhớ rằng “ Trời cao có mắt”, “lưới Trời lồng lộng” để tích cực hành động, lao động với tất cả trách nhiệm của mình. Học sinh Công Giáo quyết tâm không quay cóp bài trong kỳ thi, nêu gương học tập chăm chỉ và phục vụ vô vị lợi đối với tất cả mọi người. Đấy là những chứng nhân sống cho Tin Mừng.
Học sinh Công Giáo Việt Nam, qua việc đào tạo của các đoàn thể Công Giáo Tiến Hành như: Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể, Hướng Đạo Sinh Công Giáo, Giới Trẻ Con Đức Mẹ, Hùng Tâm Dũng Chí, Legio Mariae, của các linh mục tu sĩ, giáo lý viên… sẽ luyện tập những kỹ năng sống trung thực, hào hùng, tiết kiệm, làm chủ bản thân, lúc nào cũng lễ phép chào hỏi người trên, ăn mặc nghiêm chỉnh, gọn gàng, đẹp đẽ. Như vậy ngay từ lúc nhỏ các học sinh đó đã trở thành nhữnng gương sáng thu hút những học sinh khác.
Đấy là những hoạt động loan báo Tin Mừng của các học sinh Công Giáo Hàn Quốc. Hầu như các em học sinh này có phong cách sống khác hẳn những em ngoài Công Giáo: các em không để tóc highlight, được luyện tập những kỹ năng làm chủ chính mình rất hiệu quả từ những hội đoàn. Ngay từ lớp 1 các em đã quyết tâm : “ Em phải học hành thật giỏi, cư xử thật tốt, lễ phép với thầy cô, giúp đỡ bạn bè và cố gắng làm trưởng lớp để lôi kéo các bạn về cho Chúa Kitô”. Điều quyết tâm ấy thật lạ lùng và ta không lạ khi người tín hữu Công Giáo Hàn Quốc tăng tỷ lệ người Công Giáo so với dân số toàn quốc từ 1% vào năm 1949 tới 10,5% vào năm 2010: 5.135.000 giáo dân trên tổng dân số 48.875.000 người ( x. Catholic Almanac, NXB Our Sunday Visitor’s 2013, trang 316) trong khi số lượng linh mục tu sĩ giáo lý viên chỉ bằng nửa số người trong Giáo Hội VN.
2.2. Lĩnh vực kinh tế
Đây là lĩnh vực đáng lưu ý trong tình trạng suy sụp về kinh tế của đất nước. Chúng ta đang có 16 triệu người sống dưới mức nghèo khổ, cùng cực, không kiếm nổi 22.000 ĐVN/ ngày (tương đương với 1 Đôla Mỹ theo tiêu chuẩn UNESCO). Đó phải là một đám đông đáng cho các mục tử Công Giáo hiện nay động lòng thương xót như Đức Giêsu xưa và cộng tác với Chúa Giêsu để lo cho họ ăn.
Phép lạ hoá bánh sẽ được thực hiện nếu chúng ta tin vào Chúa Giêsu và hành động khôn ngoan để nhắc bảo dân chúng ngồi thành từng nhóm người thay vì chen lấn, giành giật nhau cái bánh, con cá ngay trên tay người khác như nhiều lần xảy ra trong các cuộc phát quà, phát chẩn ở Việt Nam.
Tôi xin chia sẻ với anh em kinh nghiệm cá nhân của mình về tình yêu và quyền năng Chúa Giêsu khi tôi làm Giám đốc Caritas Việt Nam từ năm 2008-2010. Trong hoàn cảnh rất nhiều người nghèo khổ bệnh tật ở Việt Nam cần cứu giúp, chúng tôi làm các dự án để xin một vài cơ quan từ thiện quốc tế trợ giúp, nhưng điều kiện họ đưa ra khá phức tạp, khiến chúng tôi chạy đến với Chúa Giêsu và tin cậy vào nội lực của chính đồng bào Việt Nam. Trong vòng 3 năm tôi nhận được 63 tỷ đồng kèm thêm thuốc men, hàng hoá trị giá hàng tỷ đồng khác từ sự giúp đỡ của đồng bào. Tôi cảm nhận rằng phép lạ hoá bánh ra nhiều vẫn đang được Chúa Giêsu thực hiện trong thời đại hôm nay.
Có lẽ ta sẽ học và áp dụng thử giải pháp của anh chị em Công giáo Hàn Quốc về lĩnh vực kinh tế này. Những người chủ siêu thị Công giáo liên kết với nhau để mua trực tiếp nông sản của các nông dân Công giáo với giá cao, với điều kiện là hàng hoá phải bảo đảm chất lượng, không có thuốc trừ sâu hay tăng trưởng độc hại. Để trợ giúp nông dân, các công ty lớn của người Công giáo Hàn Quốc gửi kỹ sư về miền quê để dạy nông dân kỹ thuật trồng trọt, bón phân, cho vay vốn với lãi xuất thấp để mua cây trồng, phân bón nên năng suất cao. Nhiều nông dân không phải Công Giáo cũng xin gia nhập tổ chức liên kết này rồi dần dần có cảm tình và theo đạo. Trong khi đó, hàng nông sản của người nông dân bán ở các siêu thị Công Giáo lại rẻ vì không phải qua nhiều khâu trung gian, chất lượng cao nên càng được uy tín trong cộng đồng xã hội.
Người Công Giáo Việt Nam có thể tổ chức những công ty liên kết như thế, nhất là trong hoàn cảnh các nông sản, thực phẩm chứa nhiều chất độc hại như hiện nay. Chúng ta có thể khoanh vùng để tồ chức sản xuất đại trà, tạo ra những thương hiệu hàng hoá Công Giáo như : Nước mắm Phan Thiết, trà ở Bảo Lộc, rau củ quả ở Đà Lạt, cá khô, tôm khô ở Long Xuyên, Châu Đốc, thịt heo, thịt gà ở Hố Nai… Rồi các doanh nhân Công Giáo liên kết để mở những siêu thị giúp cho hàng của người Công Giáo được phổ biến rộng rãi.
Chúng ta cũng lường trước được những thủ đoạn cạnh tranh của đối thủ ngoài Công Giáo và cả những kẻ muốn phá hoại bằng cách như bán phá giá, bán hàng giả, hàng nhái, tung tin đồn nhảm về hàng hoá. Nếu chúng ta có sự liên kết nâng đỡ nhau, các nhà kinh tế, doanh nhân, nông dân, nhất là sự tham gia tích cực của các linh mục trong các xứ đạo, quyết tâm ủng hộ hàng có chất lượng của người Công Giáo, hô hào người tín hữu trong xứ đạo tin tưởng mua hàng của người Công Giáo thì chắc chắn chúng ta sẽ tạo nên một cuộc cách mạng về kinh tế ở Việt Nam. Mẻ lưới kinh tế kéo chung này chắc hẳn sẽ rất lớn!
Cha ông ta thời trước, dù sống trong thời kỳ bị bách hại, không được buôn bán, nhưng biết liên kết, nâng đỡ nhau tạo nên những thương hiệu để người lương dân tin tưởng đến độ chỉ muốn mua hàng của người Công giáo vì đó là hàng thật, hàng tốt, hàng rẻ, và vì người Công Giáo không làm hàng độc hại, không bán hàng giả, không nói thách, không ăn lời quá đáng.
Tuy nhiên, muốn thực hiện được cuộc loan báo Tin Mừng này, người Công giáo chúng ta cần phải vượt qua bản sắc cố hữu của người Việt Nam như hay nghi ngờ, thiếu đoàn kết, ham lợi cá nhân và nhờ những giá trị sống mới của Tin Mừng, chúng ta chắc chắn sẽ thành công như các anh em Công giáo Hàn Quốc.
2.3. Lĩnh vực khoa học kỹ thuật
Tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng nhắc đến “ tình trạng khẩn cấp của giáo dục” và những thách thức hiện nay đối với nền giáo dục (số 151) càng thúc đẩy người tông đồ và thừa sai tích cực dấn thân ra khơi trong lĩnh vực này. Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng: “ Những nhà trí thức Công Giáo được ủy thác nhiệm vụ đặc biệt là phải làm chứng, bằng các hoạt động và chính đời sống của họ, rằng lý trí và đức tin là đôi cánh mà con người có thể dùng để đến với Thiên Chúa. (x. ĐTC Gioan Phaolô II, TĐ Fides et ratio, số 5, ngày 14-9-1998), cũng như làm chứng rằng đức tin và khoa học hiểu cho đúng, có thể làm giàu lẫn nhau để đem lại lợi ích cho loài người” (TLLV, số 156).
Báo chí và quần chúng VN đã nêu những mặt thiếu xót, yếu kém của nền giáo dục Việt Nam, nhiều vị lãnh đạo tôn giáo đòi quyền mở trường cho tổ chức tôn giáo của mình, thậm chí mong ước đòi lại những trường học trước kia là của mình, mà Nhà nước đang sử dụng. Tuy nhiên, giả như chính quyền có trả lại những trường học đó thì với tình trạng thiếu nhân sự chuyên môn và không được đào tạo như hiện nay, người Công Giáo chúng ta cũng chẳng có khả năng tổ chức và quản lý các trường đó.
Chúng ta hiện có vài trăm linh mục, tu sĩ đi học ở nước ngoài về trong một số lĩnh vực chuyên môn, nhưng hầu hết về nước cũng chưa được sử dụng đúng ngành, đúng nghề. Rồi do thái độ thiếu khiêm tốn, không biết cộng tác, liên kết với nhau, nhiều người cũng chỉ quanh quẩn trong cộng đồng nhỏ bé của mình, làm một số công việc bất đắc dĩ như dạy học trong các nhà trẻ, mẫu giáo và rơi vào tình trạng bất mãn, bất đắc chí.
Các tu sĩ Việt Nam hiện có gần 20.000 người, đúng ra đó phải là một lực lượng mạnh mẽ trong lĩnh vực giáo dục và truyền giáo, nhưng thật sự hầu hết chỉ quanh quẩn với ngôi trường mẫu giáo của dòng mình, của tu hội mình, chứ chưa nhìn xa và dám đi xa như các chị nữ tu Mến Thánh Giá trước đây 200-300 năm. Với chiếc tay nải chứa ít viên thuốc tễ, vài mảnh sành và chai đầu để cạo gió, các nữ tu đi khắp nơi để phổ biến kiến thức khoa học, dạy dân chúng biết cách giữ vệ sinh như lọc nước bằng than cát sỏi, đun sôi, để nguội rồi mới uống, dạy chữ quốc ngữ cho người mù chữ, học cách dùng thuốc Nam, cạo gió, cắt lể, nhất là đỡ đẻ cho các sản phụ an toàn nên được dân chúng cung kính gọi là các “bà mụ” (x. Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Người Mục tử cộng đồng hướng về tương lai, NXB Tp.HCM, số 90 tt).
Ngày nay, nhiều nữ tu sĩ hầu như chỉ học vài năm thần học rồi cố gắng học cách dọn lễ, đánh đàn nhà thờ, tập hát thánh ca, dạy giáo lý, cắm hoa để đi giúp trong các xứ đạo và bằng lòng với những công việc thường ngày của mình chứ không muốn dấn thân hơn. Như vậy thì mong gì có kết quả truyền giáo tốt đẹp? Chúng ta bỏ ra cả chục tỷ đồng để đầu tư, xây trường mẫu giáo, cho tu sĩ đi học và dạy trong các lớp và thấy dòng tu của mình có đóng góp cho xã hội trong công tác giáo dục. Nhiều tu sĩ đã bằng lòng với công việc này như kiểu ngồi trên bờ câu từng con cá nhỏ. Nhiều vị lãnh đạo dòng không dám dẫn cộng đồng mình ra khơi! Nếu số tiền đầu tư kia dồn cho các tu sĩ đi học chuyên sâu hơn trong các ngành khoa học hoặc lo cho các hoạt động Phúc Âm Hoá trong các vùng sâu, vùng xa, chắc chắn Giáo hội Việt Nam đã thành công hơn nhiều về mặt truyền giáo.
Người tín hữu chúng ta cần phải ra khơi trong lĩnh vực giáo dục, nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Chúa của chúng ta là nguồn sự khôn ngoan nên ta phải dấn thân vào mọi lĩnh vực khoa học, kỹ thuật để học hành thật giỏi, nghiên cứu thật sâu cũng như để có rất nhiều người làm giáo sư, tiến sĩ giảng dạy trong các đại học, các viện nghiên cứu, thực hiện các phát minh có giá trị phục vụ đời sống con người. Chúng ta cũng nên khuyến khích và trợ cấp học bổng cho các tu sĩ dấn thân theo học các khoa học tự nhiên thay vì chỉ học vài ngành chọn lựa như xã hội học, giáo dục mầm non, nhà trẻ mẫu giáo hoặc ngoại ngữ như hiện nay.
Các học sinh, sinh viên Công Giáo cần được đào tạo trong các xứ đạo, qua hệ thống các lớp giáo lý và hội đoàn Công Giáo tiến hành, về các phương pháp học tập, nghiên cứu để giỏi giang trong mọi bộ môn, học biết thái độ khiêm tốn để giúp các bạn học yếu kém hơn mình, dạy biết cách thở hít sâu khí tự nhiên khi ngồi học, biết cách giải trí, điều độ trong việc ăn uống, tiết kiệm trong các chi tiêu, sử dụng tiền bạc thời giờ với trách nhiệm của người quản lý trung tín, biết cách cầu nguyện trước mỗi giờ học, biết trung thực khi làm bài thi, sẵn sàng dấn thân trong các công tác xoá mù chữ cho đồng bào. Đấy là một phần nhỏ những nội dung đào tạo cho các đoàn viên Công giáo Tiến hành ở Hàn quốc chứ không phải chỉ là những bài giáo lý khô khan, thiếu sinh động, những trò chơi cũ kỹ, băng reo khiên cưỡng, những trại hè thiếu nội dung thực tế nên khó thu hút được giới trẻ năng động thời nay như đang diễn ra trong nhiều nơi của Giáo Hội Việt Nam.
Các người Công Giáo có khả năng phải sẵn sàng đỡ đầu, cấp học bổng cho các học sinh nghèo, được cha xứ giới thiệu, để trong xứ đạo hễ là người Công giáo là biết chữ cũng như sẵn sàng cộng tác vào chương trình giáo dục, đào tạo cho các học sinh nghèo khổ, khuyết tật trong cả nước.
Hồi xưa, mỗi làng chỉ có vài ông đồ học để viết chữ Nho làm đơn từ thay cho cả làng, nhưng hễ là người Công Giáo, nam cũng như nữ, đều được đi học và biết chữ nhờ kinh sách đọc hằng ngày, khởi đầu là chữ Hán, rồi đến chữ Nôm, sau đó cha ông ta đã phát minh ra chữ Quốc ngữ và truyền cho nhau học. Nhờ vậy, năm 1865, nghĩa là chỉ sau hơn 200 năm được chính thức truyền đạo bởi các linh mục thừa sai Dòng Tên từ năm 1615, nhiều người dân trong nước đã dùng thứ chữ của người Công giáo. Kết quả là tờ báo tiếng Việt đầu tiên, “Gia Định báo”, được xuất bản tại Thành Gia Định, tức là Tp. HCM ngày nay, và cho cả những người ngoài Công Giáo. Chúng ta sẽ hành động sáng tạo như thế nào trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục để tiếp bước cha ông?
2.4. Lĩnh vực cái đẹp
Giáo Hội nhắc nhở chúng ta phải dấn thân vào trong lĩnh vực đẹp vì Chúa là nguồn Chân Thiện Mỹ. Chúng ta nói nhiều đến Chân, đến Thiện nhưng lại sợ nói đến Mỹ. Giáo Hội dạy rằng: “ Vai trò cơ bản của cái đẹp cần phải được cấp bách khôi phục trong Kitô Giáo. Về phương diện này TPAH đóng một vai trò quan trọng. Hội Thánh nhìn nhận rằng con người không thể sống mà không có cái đẹp. Đối với người Kitô hữu cái đẹp được tìm thấy trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, trong sự sáng tỏ của thực tại Đức Kitô” (TLLV, số 157).
Chúng ta thử nhìn vào giới trẻ VN sẽ thấy họ đang mơ ước và thực hiện cái đẹp như thế nào. Họ có xu hướng chạy theo và sùng mộ các diễn viên, ca sĩ, nhạc sĩ, nghệ sĩ. Giới trẻ ai cũng muốn đẹp nhưng lại không biết nguồn đẹp là ai. Vì thế, người Công Giáo chúng ta phải sống và hành động làm sao cho mình thật đẹp, cả về thể xác lẫn tinh thần, để chứng minh cho mọi người, nhất là giới trẻ, nguồn đẹp cần phải tìm về là chính Đức Giêsu Kitô. Vì thế Thượng Hội đồng dạy chúng ta rằng: “Tương quan giữa đức tin và cái đẹp không chỉ là vấn đề thẩm mỹ, nhưng được coi như một nguồn lực cơ bản để làm chứng cho đức tin và phát triển một sự hiểu biết thực sự là việc phục vụ ‘toàn diện’ cho mọi nhu cầu của một con người” (TLLV, số 157).
Hồi xưa cha ông của chúng ta thu hút người khác theo Chúa Giêsu Kitô cũng là nhờ cái đẹp. Nhiều làng chỉ có hai ba cái ao chứa nước dùng để ăn uống, tắm rửa nên đa số (80-90%) dân làng đều bị toét mắt, ghẻ lở và nhiều bệnh tật khác. Trẻ em dưới 2 tuổi, cứ 10 đứa thì chết hết 7 (năm 1947). Nhưng nếu đưa con cho người Công Giáo nuôi thì chúng lại sống khoẻ mạnh. Đó là nhờ các thừa sai dạy cho tín hữu cách thức lọc nước bằng than cát sỏi, dạy phải nấu chín đun sôi để nguội mới uống cho nên rất ít người Công giáo bị ghẻ lở, toét mắt, các bệnh đường ruột. Do đó ta không lạ gì khi biết người ngoại đạo chỉ muốn lấy những chàng trai và cô gái Công Giáo vì họ đẹp đẽ, khoẻ mạnh, thông minh. Nhờ đó, số người Công giáo tăng nhanh dù bị nhiều thử thách và bách hại.
Nét Đẹp còn được diễn tả qua cách suy nghĩ, nói năng, hành động để trở thành phong cách sống riêng của người Công giáo. Người Công giáo Hàn Quốc dạy cho các trẻ em học sinh ngay từ lớp 1 phải ăn uống, đi đứng, nói năng, chào hỏi, ăn mặc cho thật đẹp. Rồi khi luyện tập các đức tính tốt theo các lời khuyên của Tin Mừng, nhất là đức tính của “Tám mối Phúc thật”, chắc chắn thể xác con người cũng đổi thay theo hướng tích cực để người Công giáo càng ngày càng có nhiều người đẹp vì “xem mặt mà bắt hình dong” cơ mà! Tỷ lệ người Công Giáo đạt nhiều giải cao trong các kỳ thi hoa hậu, chàng trai lịch lãm… cũng là một lời chứng hùng hồn cho cái đẹp của Kitô giáo!
Như thế, chúng tôi thiết nghĩ rằng Ủy ban Nghệ Thuật Thánh không chỉ lo quản lý việc xây dựng và bài trí nhà thờ, nhà nguyện theo đúng luật Phụng vụ mà còn phải quan tâm đến các vấn đề về cái đẹp trong các lĩnh vực cụ thể như ăn mặc, nói năng và hành động trong cuộc sống thường ngày của người Công giáo để có thể đưa ra những hướng dẫn tích cực.
2.5. Lĩnh vực thể thao
Giới trẻ ngày nay rất say mê thể dục, thể thao và sùng bái các vận động viên thể thao vì thế mỗi người tín hữu Kitô cấn phải đưa Đức Giêsu Kitô vào lĩnh vực thể dục, thể thao này. Những chủng sinh, tu sĩ, linh mục, trong thời gian đào tạo cũng như cả khi tốt nghiệp rồi, phải biết chơi các môn thể thao, chơi thật sự và chơi hay, chơi giỏi cũng như biết cả luật chơi để giới thiệu cho các bạn trẻ. Chúng tôi có trình bày vấn đề này trong một bài viết riêng với tựa đề “Thể thao như lĩnh vựa của Tân Phúc Âm Hoá” trong loạt bài với tựa đề: “Cẩm nang để Tân Phúc Âm hoá”. Đó là phương thức truyền giáo mới.
Ta thử tưởng tượng một ngày nào đó các tu sĩ Dòng Thừa Sai Đức Tin hay Mến Thánh Giá Chợ Quán đoạt giải vô địch nghiệp dư về bóng bàn, bóng chuyền, cầu lông hay bóng đá của Tỉnh Bình Dương hay địa phương nào đó, thông tin này sẽ thu hút hàng trăm, hàng ngàn bạn trẻ đến xin tu và việc giới thiệu Chúa Giêsu cách này có hiệu quả gấp trăm lần những bài giảng sáo mòn trong các lớp giáo lý.
Nhưng muốn tạo được các đội bóng Công Giáo, các cha xứ và nhiều người có trách nhiệm như các bề trên trong các tu viện, học viện cần phải thay đổi nhiều quan niệm về linh thánh, phải đưa được thể dục thể thao vào chương trình sống hằng ngày, phải hiểu rằng còn người cần phải phát triển toàn diện cả về thể xác lẫn tinh thần… Chúng ta nên hiểu rằng nhà thờ dù là chốn tôn nghiêm, linh thánh, không ai được phép làm ồn ào, huyên náo, nhưng còn là nơi gặp gỡ của mọi người trong cộng đồng dân Chúa vì hiểu được ý nghĩa câu nói của Chúa Giêsu: “Ngày Sabat được tạo nên cho con người chứ không phải con người cho ngày Sabat” (Mc 2,27). Lúc đó cha xứ mới có thể làm các sân chơi trong khuôn viên thánh đường, cùng chơi với các bạn trẻ trong xứ, thuê huấn luyện viên về để dạy kỹ thuật chơi cho hay, cho đẹp, tổ chức thi đấu giữa các đoàn thể trong và ngoài xứ để tạo mối liên kết, hiệp thông. Chắc chắn khi thực hiện được các sân chơi như thế, tệ nạn nghiện ngập đủ loại sẽ bớt hẳn, cha xứ và người lớn có nhiều dịp tiếp xúc để hiểu giới trẻ nhiều hơn thay cho tình trạng quá xa cách giới trẻ như hiện nay.
Cha ông chúng ta trước đây đã dùng thể thao như một lợi khí truyền giáo. Nhà thờ thường có một ao lớn trước mặt được đào để lấy đất đắp nền nhà thờ. Chiều thứ bảy hay chủ nhật, người ta tổ chức thi bắt vịt dưới ao, hoặc đi cầu tre lấy giải thưởng. Người ta cắm 1 cọc tre giữa ao treo mấy giải thưởng nơi đầu cọc, một thân tre dài bắc từ bờ ra giữa ao. Người dự thi đi chân không, bước trên thân tre tròn, trơn trượt vì dính bùn đất, nên dễ té xuống ao, tuy không nguy hiểm vì có nước, nhưng sẽ tạo nên những tiếng cười vui cho mọi người xem. Cả người ngoài Công giáo cũng được dự thi nên mỗi chiều lễ hội như thế là dịp giới thiệu Tin Mừng, tin vui của Chúa Giêsu cho mọi người!
2.6. Lĩnh vực truyền thông và sức khoẻ cộng đồng
Thượng Hội đồng Giám mục quan tâm nhiều đến lĩnh vực truyền thông khi dành ra 4 số từ 59 đến 62 trong Tài liệu Làm việc để nhắc nhở Kitô hữu sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội cho TPAH “như là một nguồn lực đòi chúng ta phải có con mắt phân định và biết sử dụng chúng một cách khôn ngoan và có trách nhiệm” (số 60). Tính đến tháng 3-2012, Việt Nam có 32,1 triệu người truy cập internet, chiếm 33,9% dân số, người ta ước tính đến tháng 7-2013 này có gần 40 triệu người truy cập, chiếm 44% dân số. Ineternet đã vượt báo giấy và radio để trở thành phương tiện thông tin phổ biến ở Việt Nam từ năm 2011. Nhưng VN chưa có trung tâm cai nghiện ineternet và trò chơi trực tuyến để giúp cho 15 triệu người nghiện trò chơi trực tuyến và phim ảnh đồi truỵ.
Vì thế GHVN cần phải dấn thân hơn nữa trong lĩnh vực này. Hầu như giáo phận nào cũng có trang web riêng, nhiều uỷ ban Hội đồng Giám mục cũng có trang web riêng nhưng số lần truy cập mỗi ngày tương đối rất ít. Trang web giáo phận có đông người truy cập nhất hiện nay là trang web của giáo phận Xuân lộc ở địa chỉ: www. giaophanxuanloc.net, với khoảng 7.000 lượt truy cập trung bình một ngày trong 1 giáo phận có khoảng trên 850.000 giáo dân. Tính đến hôm nay, ngày 25-7-2013, trang web của UB Công lý và Hoà bình có 155.846 lượt người truy cập kể từ ngày mở trang web 1-1-2012, trung bình có khoảng 300 lượt truy cập một ngày.
Trong kinh nghiệm cá nhân, chúng tôi đã từng lập một số trang web cho các uỷ ban của HĐGM VN và chúng tôi thấy rằng lĩnh vực này cần chúng ta ra khơi và đòi chúng ta liên kết để kéo chung lưới với nhau thì mới mong thu được nhiều mẻ cá lớn. Chúng tôi cũng đã tổ chức mấy khoá tập huấn cho một số anh chị em thuộc ngành xã hội học để có thể giúp cắt cơn nghiện và phục hồi cho những người nghiện trò chơi trực tuyến và phim ảnh đồi truỵ trong năm 2012.
Chúng tôi cũng đang nghiên cứu các quy trình chữa trị và phục hồi tinh thần cho khoảng hơn 10 triệu người Việt Nam bị xáo trộn tâm lý, bất an về tinh thần do các nạn phá thai, nghiện rượu chè cờ bạc, nghiện ma tuý và hy vọng có sự hợp tác của các bác sĩ toàn khoa cũng như bác sĩ chuyên khoa tâm thần, các nhà tâm lý học, xã hội học, tâm linh học trong một trung tâm phục hồi sức khoẻ toàn diện cho con người.
Lời kết
Tất cả những chương trình mục vụ mà chúng ta mơ ước chỉ có thể trở thành hiện thực nếu chúng ta biết “không những canh tân các chương trình của mình mà còn phải tăng chất lượng cho chứng tá của mình. Công cuộc Phúc Âm hoá không chỉ là một kế hoạch có tổ chức hay một chiến lược; một cách cơ bản, nó là vấn đề thiêng liêng đúng như lời ĐGH Phaolô VI đã nói: ‘Con người thời nay sẵn sàng nghe các chứng nhân hơn là các thầy dạy, và nếu họ có nghe các thầy dạy, thì chính là vì các thầy dạy cũng là những chứng nhân…’. Vì vậy Giáo Hội sẽ loan báo Tin Mừng cho thế giới trước tiên bằng hạnh kiểm và đời sống của mình, bằng chứng tá sự nghèo khó và vô tư, và bằng chứng tá sự tự do của mình đối với các quyền lực của thế gian này, tóm lại, chứng tá sự thánh thiện” (TLLV, số 158; TĐ Evangelii nuntiandi, ngày 8-12-1975, số 7).
“Chỉ những ai đã được Phúc Âm hoá và đang được Phúc Âm hoá thì mới có thể Phúc Âm hoá hay nói khác đi, chỉ những người có khả năng canh tân thiêng liêng, bằng việc gặp gỡ Đức Kitô và sống một đời hiệp thông với Người thì mới có thể Phúc Âm hoá” (TLLV, số 158). Vì thế, cuộc ra khơi để Tân Phúc Âm Hoá đang mời gọi chúng ta nhìn lại chính mình, hội dòng mình, tổ chức của mình để tìm ra những lĩnh vực chúng ta cần đổi mới bằng cách đem Chúa Giêsu và Thần Khí của Người vào trong tất cả để biến đổi và thăng hoa.
Cầu chúc tất cả các bạn trở thành chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô, Tin Mừng sống động của Thiên Chúa. Chúng ta cầu nguyện cho nhau và cùng giúp nhau thể hiện niềm ước mơ này.