Hội thảo Quốc tế “Đào tạo linh mục cho lục địa Á châu: phát triển về nhân bản một cách tích cực, toàn diện và hiệu quả”
Chính trong tình huynh đệ linh mục, các tham dự viên cảm nhận được sự hiệp thông trong Giáo Hội và sự quan tâm của Giáo Hội đối với việc đào tạo linh mục. Đặc biệt Uỷ Ban Giáo Sĩ của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC-OC) đã luôn tạo điều kiện để nâng đỡ và hỗ trợ các tham dự viên trong nhiệm vụ khó khăn là đào tạo những những linh mục để phục vụ trên cánh đồng truyền giáo của Lục địa Á châu.
Hội thảo Quốc tế “Đào tạo linh mục cho lục địa Á châu: phát triển về nhân bản một cách tích cực, toàn diện và hiệu quả”
(Ngày 6 đến 11-5-2013)
tại Đại học Lên Trời (Assumption University), Suvarnabhumi Campus – Thailand
tại Đại học Lên Trời (Assumption University), Suvarnabhumi Campus – Thailand
1. Cuộc Hội thảo Quốc tế về chủ đề “Đào tạo linh mục cho lục địa Á châu: phát triển về nhân bản một cách tích cực, toàn diện và hiệu quả”, đã được Uỷ Ban Giáo Sĩ thuộc Liên Hội đồng Giám mục Á châu (FABC-OC) tổ chức từ ngày 6 đến 11-5-2013, tại Đại học Lên Trời (Assumption University), Suvarnabhumi Campus – Thái Lan, do Dòng Các Sư huynh Thánh Gabriel thành lập và điều khiển.
2. Tham dự cuộc Hội thảo có 91 tham dự viên và thuyết trình viên gồm 1 Tổng Giám Mục (Jose Palma, Philippines); 10 Giám mục: 1 Sri Lanka (Vianney Fernando, chủ tịch FABC-OC), 4 Ấn Độ (Salvadore Lobo, Lournada Daniel, Ellas gonsales, Jude Arockiasamy), 2 Philippines (Sarat Chandrea Nayak, Mylo Vergara), 1 Bangladesh (Moses Costa), 1 Indonesia (Hilarius Nurak), 1 Thái Lan (Bosco Panya); và 80 linh mục thuộc 10 quốc tịch: Bangladesh (4), Ấn Độ (14), Indonesia (10), Malaysia (5), Myanmar (1), Philippines (29), Sri Lanka (7), Taiwan (1), Thái Lan (6), Việt Nam (13).
3. Mục đích của cuộc Hội thảo nhằm:
– Xác định các khía cạnh tích cực của việc đào tạo về nhân bản tại Chủng viện.
– Trang bị cho các nhà đào tạo, khi đồng hành với chủng sinh, có điều kiện hơn để giúp các chủng sinh trở thành những con người toàn diện về nhân bản.
– Bảo đảm Giáo hội tại châu Á có những linh mục được thúc đẩy bởi một động lực tốt, trưởng thành về tình cảm, phát triển tốt về nhân bản với một cảm thức mạnh mẽ dấn thân cho Giáo Hội và sứ vụ.
4. Nhằm đạt mục đích trên, chương trình của cuộc Hội thảo đã được khai triển dựa trên 6 đề tài thuyết trình:
(1) Thần học về thân xác và ý nghĩa của thân xác trong việc đào tạo các linh mục tương lai về nhân bản (do Cha Joel Jason, Philippines).
(2) Động lực trở thành môn đệ (linh mục tương lai) của Chúa Kitô: các khía cạnh thiêng liêng và nhân bản của động lực này đối chiếu với ơn gọi và đời sống linh mục (do Cha Peter Lechner, s.P, Philippines).
(3) Phát triển tình cảm của chủng sinh: xác định căn tính của mình, trưởng thành về tình cảm; những điều này ảnh hưởng ra sao đến sứ vụ tương lai, đến đời sống linh mục và sức khỏe tâm thần của một linh mục (do Cha Mathias Selvaratnam OMI, Sri Lanka).
(4) Phát triển tình dục lành mạnh cho một linh mục lành mạnh trong tương lai: Căn tính về giới tính, khuynh hướng về tình dục, các hành vi về tình dục; những điều này ảnh hưởng ra sao đối với cam kết sống độc thân cho Giáo hội và cho sứ vụ (do Cha Lawrence Pinto, MSIJ, Ấn Độ).
(5) Nhận thức đúng đắn về Sứ mệnh của Giáo Hội và ý thức vâng phục Quyền bính của Giáo hội, đối chiếu đặc biệt đến các khía cạnh nhân bản của đức vâng lời (do Cha Joy Thomas SVD, Ấn Độ).
(6) Các thủ tục lựa chọn ứng sinh linh mục Công giáo, nhấn mạnh cụ thể về nhân bản (do cha Jaime Noel Deslate, Philippines).
5. Ý chủ đạo xuyên suốt các đề tài thuyết trình, chính là “ân sủng không loại trừ tự nhiên, nhưng kiện toàn tự nhiên”. Những yếu tố tích cực của đời sống tự nhiên (thân xác, những tương quan phái tính, những động lực nhân bản trong ơn gọi…) được lưu ý. Nói cách khác, cuộc Hội thảo lần này đặc biệt đào sâu vấn đề đào tạo tích cực toàn diện về nhân bản, để giúp chủng sinh trưởng thành về mặt tình cảm, trở thành một con người toàn diện và một con người phát triển lành mạnh về nhân bản, nhằm trở thành những linh mục nhiệt thành, dấn thân phục vụ tại lục địa Á Châu.
(1) Trước hết với đề tài “Thần học về thân xác và ý nghĩa của thân xác trong việc đào tạo các linh mục tương lai về nhân bản”, cha Joel Jason đã dựa trên những bài giáo lý [*] “Thần học về thân xác” của Đức Gioan Phaolô II để khám phá ra điều Thiên Chúa mạc khải qua chính con người với thân xác mà Ngài đã dựng nên. Điều này chống lại Thuyết nhị nguyên đã tách biệt “thân xác” (body) và “hồn” (soul), từ đó cho rằng thân xác là xấu, hồn là tốt. Do đó, trong đào tạo, tránh hai thái cực: hoặc “chối bỏ những sung sướng tự nhiên” (xem đó là xấu xa) của loại người “khắc kỷ” (stoic) hoặc “say mê tìm kiếm những sung sướng tự nhiên” (xem đó là thần tượng) của loại người “nghiện” (addict); trái lại đào tạo những con người “mầu nhiệm” (mystic), xem những “sung sướng tự nhiên” (pleasures) là những hoạ ảnh (icon) hướng đến trời cao, để từ đó có thể “thăng hoa” (sublimate) những sung sướng tự nhiên này.
(2) Tiếp đến, khi trình bày đề tài “Động lực trở thành môn đệ của Chúa Kitô (linh mục tương lai)” cha Peter Lechner phân biệt nhiều loại động lực “nhân bản” khác nhau trong đời sống con người: động lực thể lý (đói, khát, sợ đau khổ…), động lực tâm lý (muốn hiểu biết, muốn được yêu mến…), động lực xã hội (muốn thành công, muốn có tương quan…), động lực thiêng liêng (có thể là tự nhiên như mong muốn nên tốt lành, có thể đến từ Thiên Chúa…) đã cho thấy những cấp độ của những động lực khác nhau có thể tìm thấy nơi ứng sinh linh mục. Việc đào tạo nhân bản trong chủng viện phải nhắm tới sự phát triển động lực đúng đắn nơi các chủng sinh. Tâm lý học cả Đông phương và Tây phương đều rất hữu ích cho việc huấn luyện động lực cho các ứng sinh linh mục nên những con người trưởng thành. Động lực đúng đắn tác động đến nhận thức của linh mục tương lai về chính bản thân và về tương quan với Thiên Chúa và người khác trong yêu thương và phục vụ. Sau cùng, động lực trong thiên chức linh mục đưa đến sự đồng nhất với động lực nhân bản và thần linh của chính Đức Kitô, cách đặc biệt trong những đức tính như ân cần, yêu thương và hiến mình cho người khác vì lợi ích của Nước Thiên Chúa. Để đạt đến sự phát triển động lực đúng đắn, các chủng sinh nhất thiết phải có ý thức sâu sắc về chính mình, tính khiêm tốn và lòng tin tưởng vào sự linh hứng của Thiên Chúa.
(3) Để “phát triển lành mạnh về mặt tính dục”, Cha Lawrence Pinto đã giúp hiểu “những chiều kích nhân bản của đời sống tính dục” dưới khía cạnh Tâm lý học như trưởng thành tình cảm/tính dục, những khuynh hướng tính dục, những ước muốn và hành động tính dục, đảm nhận đời sống tính dục để có được tình bạn đích thực và tương quan với mọi người; tiếp đến là những quan niệm về tính dục nơi các tôn giáo và nhất là “nhận thức đúng đắn về tính dục” theo viễn tượng Kitô giáo dựa trên xác tín: “con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa”, vì thế tính dục nơi con người là lành mạnh và “thánh thiện” (con người được mời gọi sống hồng ân tính dục Thiên Chúa đặt để nơi mình), con người có khả năng sống trung tín trong sự thân mật và trưởng thành tình cảm; về mặt xã hội, cha Pinto đã trình bày những vấn đề thiếu lành mạnh hiện nay đang ảnh hưởng trên đời sống độc thân linh mục như vấn đề đồng tính, lạm dụng tính dục, ảnh hưởng của truyền thông và Internet… Từ những nhận thức về mặt khoa học tâm lý, về mặt tôn giáo và xã hội, hai hệ luận đã được đưa ra: (1) trước hết là xác tín rằng đào tạo đời sống độc thân cách toàn diện (thể lý, tinh thần, tình cảm và thiêng liêng) là một nhu cầu khẩn thiết của Giáo Hội hôm nay; (2) từ xác tín trên thử đưa ra những áp dụng về mặt đào tạo đời sống độc thân nơi các linh mục như: giáo dục về những giá trị siêu nhiên của đời sống độc thân, một hướng dẫn cụ thể mang tính sư phạm, một giáo dục khôn ngoan về tính dục, một huấn luyện đích thực về đức khiết tịnh và tình yêu, một sự đáp trả cá nhân trong tự do.
(4) Với cha S.M. Selvaratnam, vấn đề “trưởng thành tình cảm” được đặt ra trong viễn tượng hướng đến việc thi hành sứ vụ linh mục. Sứ vụ được đặt nền tảng trước hết trên chính con người đích thực của linh mục và tiếp theo đó mới đề cập đến những yếu tố đào tạo tác động trên con người linh mục. Trước hết sự phát triển toàn diện của một con người bao gồm sự phát triển lý trí (rational development) và sự phát triển tình cảm (emotional development). Có nhiều người sự phát triển lý trí, học vấn rất cao (chỉ số IQ Intelligent Quotient cao), nhưng sự phát triển tình cảm gặp nhiều trục trặc (chỉ số EQ Emotional Quotient thấp); từ đó dẫn tới những thái độ, phản ứng… đối với người khác gặp nhiều trục trặc: nóng nảy, nghi ngờ, lạm dụng… Một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc phát triển tình cảm đó là “việc được đón nhận” (acceptance). Một đứa trẻ không được yêu thương, “bị từ chối”, bị ngược đãi… sẽ bị rối loạn về mặt tâm lý, luôn tìm cách làm sao để người khác chú ý đến mình, “chấp nhận mình”. Nơi Chúa Giêsu, về mặt nhân tính, được phát triển rất ổn định, vì được yêu thương, được chấp nhận qua cha mẹ và nhất là từ Chúa Cha: “Này là Con ta rất yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng” (Mt 3,17). Sau vấn đề ổn định từ thơ bé qua sự chấp nhận, yêu thương của cha mẹ, những yếu tố khác ảnh hưởng trên việc “trưởng thành tình cảm” của một thiếu niên được đề cập tới là: chính đời sống và con người của những nhà giáo dục, những chiều kích trong đào tạo giáo dục về nhân bản, trí thức, thiêng liêng, luân lý. Như vậy, sự trưởng thành tình cảm của người linh mục là kết quả của một tổng hợp: từ việc ổn định nhân cách từ thơ bé nơi gia đình đến những khía cạnh khác nhau trong tiến tình giáo dục đào tạo.
(5) Đề tài thứ 5 do Cha Joy Thomas trình bày xác định các linh mục được đào tạo hiệu quả tại Á châu hiện nay cần có nhận thức đúng đắn về sứ mạng của Giáo Hội và ý thức vâng phục quyền bính trong Giáo Hội. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói rằng Giáo Hội chỉ có một mục tiêu là “phục vụ con người qua việc bày tỏ cho họ tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Kitô” (RM 2). Hội nghị toàn thể lần thứ I của FABC tại Đài Loan năm 1974 đã kêu gọi một cuộc đối thoại ba chiều với các nền văn hóa, các tôn giáo, và người nghèo. Tại Á Châu, các linh mục không chỉ là những con người của tri thức; họ phải vừa là người của Thiên Chúa để trình bày những điều mầu nhiệm trong kinh nghiệm đời thường, vừa là người của Giáo Hội phục vụ cộng đoàn từ dưới thấp chứ không phải từ trên cao. Toàn bộ việc đào tạo linh mục phải mang tính truyền giáo, đặt nền trên cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô Phục Sinh và xây dựng một cộng đoàn của sự sống và tình yêu. Lục địa Á Châu cần có những linh mục luôn gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, cam kết dấn thân tron vẹn cho việc truyền giáo, có thể cộng tác với mọi người và trung thành cách sáng tạo với truyền thống. Vì thế điều quan trọng của đào tạo nhân bản, thiêng liêng, tri thức, và mục vụ là làm sống động sự hiện diện của Đức Giêsu, cộng tác với giáo dân và anh chị em khác tôn giáo, lưu tâm đến vấn đề nữ giới trong xã hội Á châu, và nuôi dưỡng sự nhạy bén với người nghèo. Điều này đòi hỏi việc giới thiệu Đức Giêsu với “một khuôn mặt Á châu… như là thầy dạy Khôn Ngoan, Đấng chữa lành, Người giải thoát, vị hướng dẫn thiêng liêng, Đấng khai sáng, người bạn đồng hành của người nghèo, Người Samari nhân hậu, Mục tử tốt lành, và Đấng vâng phục” (theo Thượng Hội đồng Giám mục Á châu).
(6) Đề tài cuối cùng về “Các thủ tục lựa chọn ứng sinh linh mục Công giáo” đã được cha Jaime Noel Deslate khai triển thành 2 phần: (1) thủ tục lựa chọn ứng sinh lên chức linh mục; (2) những đức tính nhân bản cần thiết của một ứng sinh linh mục. Trước hết, thủ tục lựa chọn ứng sinh linh mục là một “công việc mang tính Giáo Hội”. Việc này rộng lớn hơn là kết quả đánh giá dựa trên những xét nghiệm kiểm tra tâm lý (psychological screening tests). Thủ tục lựa chọn ứng sinh đòi sự cộng tác của các nhà đào tạo, các cha linh hướng, cha xứ, bác sĩ tâm lý và của nhiều người khác nữa. Thủ tục này gồm 2 giai đoạn bổ túc cho nhau: giai đoạn tiếp nhận ứng sinh với những điều kiện đưa ra và giai đoạn giúp ứng sinh lớn lên hay chữa lành những “vết thương” (nếu có). Cuối cùng thủ tục lựa chọn phải là một chương trình được phác hoạ rõ ràng với từng giai đoạn. Về những đức tính nhân bản cần có, trước hết “phương pháp tâm lý tích cực” (positive psychology) sẽ giúp khám phá và phát triển những nét tích cực nơi ứng sinh: về tình cảm, về những điểm mạnh, những nét tích cực của những đức tính nhân bản cũng như những ảnh hưởng tốt trong lãnh vực tôn giáo và tâm linh. Tiếp đến, cha Jaime Noel đã nhắc lại và liệt kê những đức tính nhân bản đã được những Văn kiện Giáo Hội đề cập đến như trong Sắc lệnh Đào tạo Linh mục, trong Ratio Fundamentalis Sacerdotalis (1970), trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, trong Chỉ Nam về Đời sống và Thừa tác vụ Linh mục (1994), trong Ratio về đào tạo Linh mục của Philippines. Cuối cùng, để kết luận, vai trò của Chúa Thánh Thần đã được đề cập đến như là đỉnh cao của Tiến trình lựa chọn các ứng sinh linh mục.
6. Ngoài những buổi thuyết trình, các tham dự viên có những giờ hội thảo nhóm và những cuộc gặp gỡ cá nhân để đào sâu đề tài và trao đổi kinh nghiệm trong việc đào tạo linh mục. Chính trong tình huynh đệ linh mục, các tham dự viên cảm nhận được sự hiệp thông trong Giáo Hội và sự quan tâm của Giáo Hội đối với việc đào tạo linh mục. Đặc biệt Uỷ Ban Giáo Sĩ của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC-OC) đã luôn tạo điều kiện để nâng đỡ và hỗ trợ các tham dự viên trong nhiệm vụ khó khăn là đào tạo những những linh mục để phục vụ trên cánh đồng truyền giáo của Lục địa Á châu.
––––––––––––––––––
[*] “Thần học về thân xác” (Theology of the Body) là một loạt 129 bài giáo lý của Đức Gioan Phaolô II được trình bày trong những buổi triều yết chung vào thứ tư hằng tuần từ 1979-1984.
2. Tham dự cuộc Hội thảo có 91 tham dự viên và thuyết trình viên gồm 1 Tổng Giám Mục (Jose Palma, Philippines); 10 Giám mục: 1 Sri Lanka (Vianney Fernando, chủ tịch FABC-OC), 4 Ấn Độ (Salvadore Lobo, Lournada Daniel, Ellas gonsales, Jude Arockiasamy), 2 Philippines (Sarat Chandrea Nayak, Mylo Vergara), 1 Bangladesh (Moses Costa), 1 Indonesia (Hilarius Nurak), 1 Thái Lan (Bosco Panya); và 80 linh mục thuộc 10 quốc tịch: Bangladesh (4), Ấn Độ (14), Indonesia (10), Malaysia (5), Myanmar (1), Philippines (29), Sri Lanka (7), Taiwan (1), Thái Lan (6), Việt Nam (13).
3. Mục đích của cuộc Hội thảo nhằm:
– Xác định các khía cạnh tích cực của việc đào tạo về nhân bản tại Chủng viện.
– Trang bị cho các nhà đào tạo, khi đồng hành với chủng sinh, có điều kiện hơn để giúp các chủng sinh trở thành những con người toàn diện về nhân bản.
– Bảo đảm Giáo hội tại châu Á có những linh mục được thúc đẩy bởi một động lực tốt, trưởng thành về tình cảm, phát triển tốt về nhân bản với một cảm thức mạnh mẽ dấn thân cho Giáo Hội và sứ vụ.
4. Nhằm đạt mục đích trên, chương trình của cuộc Hội thảo đã được khai triển dựa trên 6 đề tài thuyết trình:
(1) Thần học về thân xác và ý nghĩa của thân xác trong việc đào tạo các linh mục tương lai về nhân bản (do Cha Joel Jason, Philippines).
(2) Động lực trở thành môn đệ (linh mục tương lai) của Chúa Kitô: các khía cạnh thiêng liêng và nhân bản của động lực này đối chiếu với ơn gọi và đời sống linh mục (do Cha Peter Lechner, s.P, Philippines).
(3) Phát triển tình cảm của chủng sinh: xác định căn tính của mình, trưởng thành về tình cảm; những điều này ảnh hưởng ra sao đến sứ vụ tương lai, đến đời sống linh mục và sức khỏe tâm thần của một linh mục (do Cha Mathias Selvaratnam OMI, Sri Lanka).
(4) Phát triển tình dục lành mạnh cho một linh mục lành mạnh trong tương lai: Căn tính về giới tính, khuynh hướng về tình dục, các hành vi về tình dục; những điều này ảnh hưởng ra sao đối với cam kết sống độc thân cho Giáo hội và cho sứ vụ (do Cha Lawrence Pinto, MSIJ, Ấn Độ).
(5) Nhận thức đúng đắn về Sứ mệnh của Giáo Hội và ý thức vâng phục Quyền bính của Giáo hội, đối chiếu đặc biệt đến các khía cạnh nhân bản của đức vâng lời (do Cha Joy Thomas SVD, Ấn Độ).
(6) Các thủ tục lựa chọn ứng sinh linh mục Công giáo, nhấn mạnh cụ thể về nhân bản (do cha Jaime Noel Deslate, Philippines).
5. Ý chủ đạo xuyên suốt các đề tài thuyết trình, chính là “ân sủng không loại trừ tự nhiên, nhưng kiện toàn tự nhiên”. Những yếu tố tích cực của đời sống tự nhiên (thân xác, những tương quan phái tính, những động lực nhân bản trong ơn gọi…) được lưu ý. Nói cách khác, cuộc Hội thảo lần này đặc biệt đào sâu vấn đề đào tạo tích cực toàn diện về nhân bản, để giúp chủng sinh trưởng thành về mặt tình cảm, trở thành một con người toàn diện và một con người phát triển lành mạnh về nhân bản, nhằm trở thành những linh mục nhiệt thành, dấn thân phục vụ tại lục địa Á Châu.
(1) Trước hết với đề tài “Thần học về thân xác và ý nghĩa của thân xác trong việc đào tạo các linh mục tương lai về nhân bản”, cha Joel Jason đã dựa trên những bài giáo lý [*] “Thần học về thân xác” của Đức Gioan Phaolô II để khám phá ra điều Thiên Chúa mạc khải qua chính con người với thân xác mà Ngài đã dựng nên. Điều này chống lại Thuyết nhị nguyên đã tách biệt “thân xác” (body) và “hồn” (soul), từ đó cho rằng thân xác là xấu, hồn là tốt. Do đó, trong đào tạo, tránh hai thái cực: hoặc “chối bỏ những sung sướng tự nhiên” (xem đó là xấu xa) của loại người “khắc kỷ” (stoic) hoặc “say mê tìm kiếm những sung sướng tự nhiên” (xem đó là thần tượng) của loại người “nghiện” (addict); trái lại đào tạo những con người “mầu nhiệm” (mystic), xem những “sung sướng tự nhiên” (pleasures) là những hoạ ảnh (icon) hướng đến trời cao, để từ đó có thể “thăng hoa” (sublimate) những sung sướng tự nhiên này.
(2) Tiếp đến, khi trình bày đề tài “Động lực trở thành môn đệ của Chúa Kitô (linh mục tương lai)” cha Peter Lechner phân biệt nhiều loại động lực “nhân bản” khác nhau trong đời sống con người: động lực thể lý (đói, khát, sợ đau khổ…), động lực tâm lý (muốn hiểu biết, muốn được yêu mến…), động lực xã hội (muốn thành công, muốn có tương quan…), động lực thiêng liêng (có thể là tự nhiên như mong muốn nên tốt lành, có thể đến từ Thiên Chúa…) đã cho thấy những cấp độ của những động lực khác nhau có thể tìm thấy nơi ứng sinh linh mục. Việc đào tạo nhân bản trong chủng viện phải nhắm tới sự phát triển động lực đúng đắn nơi các chủng sinh. Tâm lý học cả Đông phương và Tây phương đều rất hữu ích cho việc huấn luyện động lực cho các ứng sinh linh mục nên những con người trưởng thành. Động lực đúng đắn tác động đến nhận thức của linh mục tương lai về chính bản thân và về tương quan với Thiên Chúa và người khác trong yêu thương và phục vụ. Sau cùng, động lực trong thiên chức linh mục đưa đến sự đồng nhất với động lực nhân bản và thần linh của chính Đức Kitô, cách đặc biệt trong những đức tính như ân cần, yêu thương và hiến mình cho người khác vì lợi ích của Nước Thiên Chúa. Để đạt đến sự phát triển động lực đúng đắn, các chủng sinh nhất thiết phải có ý thức sâu sắc về chính mình, tính khiêm tốn và lòng tin tưởng vào sự linh hứng của Thiên Chúa.
(3) Để “phát triển lành mạnh về mặt tính dục”, Cha Lawrence Pinto đã giúp hiểu “những chiều kích nhân bản của đời sống tính dục” dưới khía cạnh Tâm lý học như trưởng thành tình cảm/tính dục, những khuynh hướng tính dục, những ước muốn và hành động tính dục, đảm nhận đời sống tính dục để có được tình bạn đích thực và tương quan với mọi người; tiếp đến là những quan niệm về tính dục nơi các tôn giáo và nhất là “nhận thức đúng đắn về tính dục” theo viễn tượng Kitô giáo dựa trên xác tín: “con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa”, vì thế tính dục nơi con người là lành mạnh và “thánh thiện” (con người được mời gọi sống hồng ân tính dục Thiên Chúa đặt để nơi mình), con người có khả năng sống trung tín trong sự thân mật và trưởng thành tình cảm; về mặt xã hội, cha Pinto đã trình bày những vấn đề thiếu lành mạnh hiện nay đang ảnh hưởng trên đời sống độc thân linh mục như vấn đề đồng tính, lạm dụng tính dục, ảnh hưởng của truyền thông và Internet… Từ những nhận thức về mặt khoa học tâm lý, về mặt tôn giáo và xã hội, hai hệ luận đã được đưa ra: (1) trước hết là xác tín rằng đào tạo đời sống độc thân cách toàn diện (thể lý, tinh thần, tình cảm và thiêng liêng) là một nhu cầu khẩn thiết của Giáo Hội hôm nay; (2) từ xác tín trên thử đưa ra những áp dụng về mặt đào tạo đời sống độc thân nơi các linh mục như: giáo dục về những giá trị siêu nhiên của đời sống độc thân, một hướng dẫn cụ thể mang tính sư phạm, một giáo dục khôn ngoan về tính dục, một huấn luyện đích thực về đức khiết tịnh và tình yêu, một sự đáp trả cá nhân trong tự do.
(4) Với cha S.M. Selvaratnam, vấn đề “trưởng thành tình cảm” được đặt ra trong viễn tượng hướng đến việc thi hành sứ vụ linh mục. Sứ vụ được đặt nền tảng trước hết trên chính con người đích thực của linh mục và tiếp theo đó mới đề cập đến những yếu tố đào tạo tác động trên con người linh mục. Trước hết sự phát triển toàn diện của một con người bao gồm sự phát triển lý trí (rational development) và sự phát triển tình cảm (emotional development). Có nhiều người sự phát triển lý trí, học vấn rất cao (chỉ số IQ Intelligent Quotient cao), nhưng sự phát triển tình cảm gặp nhiều trục trặc (chỉ số EQ Emotional Quotient thấp); từ đó dẫn tới những thái độ, phản ứng… đối với người khác gặp nhiều trục trặc: nóng nảy, nghi ngờ, lạm dụng… Một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc phát triển tình cảm đó là “việc được đón nhận” (acceptance). Một đứa trẻ không được yêu thương, “bị từ chối”, bị ngược đãi… sẽ bị rối loạn về mặt tâm lý, luôn tìm cách làm sao để người khác chú ý đến mình, “chấp nhận mình”. Nơi Chúa Giêsu, về mặt nhân tính, được phát triển rất ổn định, vì được yêu thương, được chấp nhận qua cha mẹ và nhất là từ Chúa Cha: “Này là Con ta rất yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng” (Mt 3,17). Sau vấn đề ổn định từ thơ bé qua sự chấp nhận, yêu thương của cha mẹ, những yếu tố khác ảnh hưởng trên việc “trưởng thành tình cảm” của một thiếu niên được đề cập tới là: chính đời sống và con người của những nhà giáo dục, những chiều kích trong đào tạo giáo dục về nhân bản, trí thức, thiêng liêng, luân lý. Như vậy, sự trưởng thành tình cảm của người linh mục là kết quả của một tổng hợp: từ việc ổn định nhân cách từ thơ bé nơi gia đình đến những khía cạnh khác nhau trong tiến tình giáo dục đào tạo.
(5) Đề tài thứ 5 do Cha Joy Thomas trình bày xác định các linh mục được đào tạo hiệu quả tại Á châu hiện nay cần có nhận thức đúng đắn về sứ mạng của Giáo Hội và ý thức vâng phục quyền bính trong Giáo Hội. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói rằng Giáo Hội chỉ có một mục tiêu là “phục vụ con người qua việc bày tỏ cho họ tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Kitô” (RM 2). Hội nghị toàn thể lần thứ I của FABC tại Đài Loan năm 1974 đã kêu gọi một cuộc đối thoại ba chiều với các nền văn hóa, các tôn giáo, và người nghèo. Tại Á Châu, các linh mục không chỉ là những con người của tri thức; họ phải vừa là người của Thiên Chúa để trình bày những điều mầu nhiệm trong kinh nghiệm đời thường, vừa là người của Giáo Hội phục vụ cộng đoàn từ dưới thấp chứ không phải từ trên cao. Toàn bộ việc đào tạo linh mục phải mang tính truyền giáo, đặt nền trên cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô Phục Sinh và xây dựng một cộng đoàn của sự sống và tình yêu. Lục địa Á Châu cần có những linh mục luôn gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, cam kết dấn thân tron vẹn cho việc truyền giáo, có thể cộng tác với mọi người và trung thành cách sáng tạo với truyền thống. Vì thế điều quan trọng của đào tạo nhân bản, thiêng liêng, tri thức, và mục vụ là làm sống động sự hiện diện của Đức Giêsu, cộng tác với giáo dân và anh chị em khác tôn giáo, lưu tâm đến vấn đề nữ giới trong xã hội Á châu, và nuôi dưỡng sự nhạy bén với người nghèo. Điều này đòi hỏi việc giới thiệu Đức Giêsu với “một khuôn mặt Á châu… như là thầy dạy Khôn Ngoan, Đấng chữa lành, Người giải thoát, vị hướng dẫn thiêng liêng, Đấng khai sáng, người bạn đồng hành của người nghèo, Người Samari nhân hậu, Mục tử tốt lành, và Đấng vâng phục” (theo Thượng Hội đồng Giám mục Á châu).
(6) Đề tài cuối cùng về “Các thủ tục lựa chọn ứng sinh linh mục Công giáo” đã được cha Jaime Noel Deslate khai triển thành 2 phần: (1) thủ tục lựa chọn ứng sinh lên chức linh mục; (2) những đức tính nhân bản cần thiết của một ứng sinh linh mục. Trước hết, thủ tục lựa chọn ứng sinh linh mục là một “công việc mang tính Giáo Hội”. Việc này rộng lớn hơn là kết quả đánh giá dựa trên những xét nghiệm kiểm tra tâm lý (psychological screening tests). Thủ tục lựa chọn ứng sinh đòi sự cộng tác của các nhà đào tạo, các cha linh hướng, cha xứ, bác sĩ tâm lý và của nhiều người khác nữa. Thủ tục này gồm 2 giai đoạn bổ túc cho nhau: giai đoạn tiếp nhận ứng sinh với những điều kiện đưa ra và giai đoạn giúp ứng sinh lớn lên hay chữa lành những “vết thương” (nếu có). Cuối cùng thủ tục lựa chọn phải là một chương trình được phác hoạ rõ ràng với từng giai đoạn. Về những đức tính nhân bản cần có, trước hết “phương pháp tâm lý tích cực” (positive psychology) sẽ giúp khám phá và phát triển những nét tích cực nơi ứng sinh: về tình cảm, về những điểm mạnh, những nét tích cực của những đức tính nhân bản cũng như những ảnh hưởng tốt trong lãnh vực tôn giáo và tâm linh. Tiếp đến, cha Jaime Noel đã nhắc lại và liệt kê những đức tính nhân bản đã được những Văn kiện Giáo Hội đề cập đến như trong Sắc lệnh Đào tạo Linh mục, trong Ratio Fundamentalis Sacerdotalis (1970), trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, trong Chỉ Nam về Đời sống và Thừa tác vụ Linh mục (1994), trong Ratio về đào tạo Linh mục của Philippines. Cuối cùng, để kết luận, vai trò của Chúa Thánh Thần đã được đề cập đến như là đỉnh cao của Tiến trình lựa chọn các ứng sinh linh mục.
6. Ngoài những buổi thuyết trình, các tham dự viên có những giờ hội thảo nhóm và những cuộc gặp gỡ cá nhân để đào sâu đề tài và trao đổi kinh nghiệm trong việc đào tạo linh mục. Chính trong tình huynh đệ linh mục, các tham dự viên cảm nhận được sự hiệp thông trong Giáo Hội và sự quan tâm của Giáo Hội đối với việc đào tạo linh mục. Đặc biệt Uỷ Ban Giáo Sĩ của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC-OC) đã luôn tạo điều kiện để nâng đỡ và hỗ trợ các tham dự viên trong nhiệm vụ khó khăn là đào tạo những những linh mục để phục vụ trên cánh đồng truyền giáo của Lục địa Á châu.
––––––––––––––––––
[*] “Thần học về thân xác” (Theology of the Body) là một loạt 129 bài giáo lý của Đức Gioan Phaolô II được trình bày trong những buổi triều yết chung vào thứ tư hằng tuần từ 1979-1984.
Lm. Giuse Đỗ Mạnh Hùng & Lm. Phêrô Kiều Công Tùng