Chúa Nhật IV PS – C: Ơn gọi và thách đố ở Việt Nam
Hôm nay Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, chúng ta cùng nhìn lại ơn gọi với một vài thách đố trên thế giới cũng như ở Việt Nam để có thể đáp lại cách hiệu quả lời mời gọi của Thiên Chúa trong giai đoạn hiện nay.
Ơn gọi và thách đố ở Việt Nam
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
Lời mở
Hôm nay Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Giáo Hội mời gọi chúng ta dành những lời cầu nguyện, hy sinh và giúp đỡ cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Đặc biệt năm nay chúng ta kỷ niệm 50 năm ngày ĐGH Phaolô VI thiết lập Ngày Toàn thể Giáo Hội cầu cho Ơn gọi đồng thời với Công đồng Vaticanô II. Chúng ta được mời gọi lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi bước theo Người như đàn chiên theo sau Vị Mục tử Nhân lành đi vào con đường của sự thật giải thoát và sự sống thần linh để sau cùng chúng ta cũng trở thành lời mời gọi người khác bước theo Đức Kitô.
Vì thế, trong ít phút này chúng ta cùng nhìn lại ơn gọi với một vài thách đố trên thế giới cũng như ở Việt Nam để có thể đáp lại cách hiệu quả lời mời gọi của Thiên Chúa trong giai đoạn hiện nay.
1. Vài con số về ơn gọi
1.1. Ơn gọi trên thế giới
Theo thống kê của Giáo Hội (x. Catholic Almanac 2013, NXB Our Sunday Visitor, tr 335), hiện nay Giáo hội Công giáo có khoảng 1,3 triệu người sống theo ơn gọi linh mục và tu sĩ trong số 1 tỷ 200 triệu tín hữu (12 Thượng phụ, 207 hồng y, 1.039 tổng giám mục, 3.855 giám mục, 421.236 linh mục dòng-triều, 721.935 nữ tu sĩ và 54.655 nam tu sĩ, 118.990 chủng sinh). Như vậy tỉ lệ cứ khoảng 1.000 tín hữu thì có 1 người sống trong ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ. Nếu nhìn lại 50 năm trước, tỉ lệ trên đã giảm đi một nửa: 50 năm trước có 440 ngàn linh mục, hơn 800 ngàn nữ tu sĩ, hơn 100.000 nam tu sĩ, gần 100 ngàn chủng sinh trong 679 triệu người Công giáo, tức là cứ 1.000 tín hữu thì có 2 người sống ơn gọi linh mục hay tu sĩ.
1.2. Ơn gọi ở Việt Nam
Nhìn vào Giáo hội Công giáo Việt Nam hiện nay, chúng ta đang có 6.456.947 tín hữu trên 90 triệu dân. Khoảng 32.000 người theo đuổi ơn gọi linh mục, tu sĩ (44 giám mục, 4.219 linh mục dòng (942) và triều (3.277), 18.997 tu sĩ nam nữ, 4.096 chủng sinh và dự tu, hơn 5.000 đệ tử các dòng). Nếu tính theo tỉ lệ, cứ 1.000 tín hữu Công giáo VN thì có 5 người theo đuổi ơn gọi, tức là gần gấp 5 tỉ lệ của thế giới (x. Thống kê từ Văn phòng Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam, tính đến ngày 31-12-2011).
2. Vài nhận định về ơn gọi ở Việt Nam
Chúng tôi xin đưa ra vài nhận định có thể làm buồn lòng một vài vị hữu trách, nhưng rất cần thiết, nếu chúng ta muốn đối mặt với những thách đố đang đặt ra cho Giáo Hội Việt Nam (GHVN).
2.1. Trước hết, ơn gọi ở VN vừa thừa lại vừa thiếu.
Thừa vì VN hiện có 8 chủng viện. Có chủng viện sau khi đào tạo chủng sinh đã phải hạn chế việc phong chức linh mục vì giáo phận không có đủ xứ đạo cho linh mục hay xứ đạo quá ít tín hữu (dưới 500 người) không đủ khả năng và phương tiện nuôi sống linh mục, nhất là một số giáo phận miền Trung. Số các linh mục ở các giáo phận như Đà Nẵng, Quy Nhơn, Huế, Nha Trang, Hà Nội, Đà Lạt đang gấp đôi hoặc gấp ba so với số giáo xứ nên có tình trạng thiếu việc làm cho các linh mục.
Thiếu, vì Giáo hội Việt Nam có thể đang cần gấp đôi, gấp ba số linh mục và tu sĩ để loan báo Tin Mừng và tham gia vào mọi hoạt động trong cộng đồng xã hội. Hiện nay, số tín hữu Việt Nam mới chỉ chiếm 7% dân số cả nước và giữ nguyên trong nhiều chục năm qua, chứng tỏ công cuộc loan báo Tin Mừng chưa hiệu quả và đời sống của những linh mục, tu sĩ cũng như tín hữu Công giáo Việt Nam chưa thu hút người khác đến với Đức Kitô.
2.2. Ơn gọi Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm
Từ năm 1954 ở miền Bắc và 1975 ở miền Nam, lịch sử ơn gọi Việt Nam đã viết nên những trang hào hùng về các người con trung thành với lời Chúa kêu gọi dù bị cô lập, thiệt thòi, tù tội, bách hại. Nhiều linh mục, tu sĩ gặp thử thách nặng nề vì chủng viện, tu viện chẳng còn gì để nuôi sống sau những đợt tịch thu ruộng đất, nhà cửa, trường học, đổi tiền. Nhiều người thay vì về lập gia đình đã sẵn sàng sống đời nghèo khổ, chủng sinh sẵn sàng đi làm thuỷ lợi, lao động ở các nông trường, tu sĩ đi đan lá buông, sơn mành trúc, bán hàng rong ở bến xe và đã trở thành những linh mục, tu sĩ gương mẫu, biết dấn thân cho người nghèo khổ, bất hạnh.
Sau thời kỳ đất nước mở cửa năm 1986-1992, các chủng viện, tu viện bắt đầu được phép thu nhận chủng sinh, tu sinh với điều kiện phải được chính quyền chấp thuận, lý lịch cá nhân tốt đẹp, rõ ràng… Một số giáo phận miền Bắc do thiếu linh mục trầm trọng nên đã mở các chủng viện “chui”. Một số thanh niên được lựa chọn sơ sài, đào tạo vội vã ít môn thần học cơ bản, chưa được quan tâm nhiều đến đời sống đạo đức, nhân bản nhưng vẫn được phong chức linh mục. Vì thế không thiếu trường hợp linh mục sống buông thả, tìm lợi lộc vật chất và đi ngược với con đường của Đức Kitô.
Trong cuộc khủng hoảng ơn gọi của toàn thế giới, nhiều dòng tu nước ngoài đến Việt Nam tìm ơn gọi nơi các thanh thiếu niên để thế chỗ cho những người già yếu của họ ở châu Âu, châu Mỹ. Với những phương tiện dồi dào, các dòng này cung cấp cho sinh viên Việt Nam nơi ăn chốn ở trong các nhà ở thành phố, nhất là thành phố Hồ Chí Minh, cho học bổng để học ngoại ngữ hay học đại học, hứa hẹn cho ra học cao ở nước ngoài. Thế là “cơn sốt ơn gọi” bùng phát ở nhiều nơi và Việt Nam trở thành “thị trường ơn gọi”.
Nhiều thanh thiếu niên nam nữ trong các vùng nông thôn nghèo khổ, nhất là ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam, đổ xô đi tu vì đó là con đường để thoát nghèo, được học hành, sống sung túc, đạt được địa vị danh giá cho mình và cho gia đình. Các dòng tu nước ngoài này vì đang thiếu nhân sự nên dễ dàng nhận vào các thanh thiếu niên mà hầu như không có sự phân định ơn gọi, thiếu việc linh hướng thường xuyên, thiếu việc đào tạo tu đức và nhân bản nên nhiều người trẻ Việt Nam, sau khi học thành tài ở đại học, đã bỏ dòng tu, hoặc vẫn ở lại tu nhưng thái độ sống lại đi ngược với lời khấn khó nghèo, vâng phục và khiết tịnh. Tuy số người này không nhiều nhưng những “con sâu vẫn làm rầu nồi canh”.
Hơn nữa từ sau năm 1975 các chủng viện, tu viện đón nhận các thanh thiếu niên được đào tạo trong môi trường của ý thức hệ vô thần, duy vật, do thiếu các vị “linh hướng”, do sự trọng vọng của giáo dân đối với các người đi tu sẵn sàng cung cấp tiền bạc phương tiện, do thiếu chương trình đào tạo chính quy về triết học thần học, do thiếu thời gian sống thử luyện, nên chất lượng của các chủng sinh hay tu sĩ không còn cao như trước.
Tình trạng phân hoá và chia rẽ trong mỗi cộng đồng tu trì tuy diễn ra âm thầm nhưng lại có sức tàn phá mãnh liệt kể từ khi các chủng viện và dòng tu được phép tuyển người đi học ở nước ngoài. Vì số người được chọn ít nên có sự can thiệp từ các cấp lãnh đạo giáo phận. Người được chọn có thể là “con ông cháu cha”, không xứng đáng về tài đức so với những người khác nên xảy ra việc ganh tỵ, bất mãn, bất phục trong nội bộ cộng đồng. Rồi khi người đi du học về với bằng cấp đạt được, lại trở thành bề trên cai quản, thì đời sống cộng đồng càng bị phân hoá hơn nữa, nhiều người không còn niềm vui và sự hăng hái làm việc.
Chúng tôi rất ngại ngùng khi phải nói lên những thực tế đau lòng này, nhưng nếu cứ để yên trong lòng Giáo hội Việt Nam như một ung nhọt không chữa trị thì sợ rằng tình trạng bất động, thụ động, kém hiệu quả trong việc loan báo Tin Mừng cũng như thu hút người khác đến Đức Kitô sẽ vẫn tồn tại lâu dài như trong suốt mấy chục năm vừa qua.
3. Đường hướng đổi mới ơn gọi
3.1. Khi chúng ta nhận thức được rằng dù Giáo hội thánh thiện từ bản chất nhưng vẫn chỉ là cộng đồng gồm những con người yếu đuối tội lỗi, luôn được Chúa giữ gìn che chở, ta mới có thể sống trong niềm vui, hy vọng, bình an và quảng đại cống hiến cho Chúa vì chúng ta biết rằng Chúa biết rõ và thưởng phạt công mình từng hành động nhỏ bé của ta. Chúng ta tin tưởng rằng dù con người có gian ác, bất công đến mấy, có phạm tội nặng nề đến đâu, thì Chúa vẫn đủ quyền năng và tình thương để biến đổi họ thành những mục tử tốt lành theo lòng mong ước của Người.
3.2. Qua cuộc bầu chọn Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Giáo hội Công giáo đang mời gọi linh mục tu sĩ thay đổi để sống đơn thành, khiêm tốn theo tinh thần nghèo khó thay vì một đời sống xa hoa với những xe hơi, xe máy đắt tiền, với những căn phòng tiện nghi cao cấp, hoặc xây cất nhà thờ thật lớn, tu viện thật sang. Nhìn vào Đấng Mục Tử tốt lành sống như người hành khất, rong ruổi từ làng này sang làng khác, ăn nhờ ở đậu nhờ lòng quý mến yêu thương của mọi người hoặc chết nhục nhã như một tội nhân trên Thập giá, các linh mục tu sĩ sẽ noi gương Đức Giáo hoàng Phanxicô sống tinh thần đơn sơ khó nghèo của Chúa.
3.3. Các linh mục, tu sĩ cũng như từng tín hữu giáo dân được mời gọi nhìn vào Đức Kitô Phục Sinh để nhận ra Người là vị Mục Tử nhân lành đến rao giảng Tin Mừng cứu độ cho đàn chiên và đàn chiên nghe được tiếng Người, theo Người trên con đường sự thật và sự sống. Sự thật về con người, về đất nước, về Giáo hội có phũ phàng, chua chát, làm buồn lòng ta thế nào đi nữa thì chúng ta vẫn sống trong hy vọng, bình an và tích cực hành động để biểu lộ sự thật giải thoát và sự sống kì diệu của Thiên Chúa trong đời sống mỗi người. Nhờ ơn lành và sức mạnh của Chúa Thánh Thần nâng đỡ, mỗi người chúng ta sẽ tích cực học hành, tu luyện và hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống để biểu lộ cái đúng, cái tốt, cái đẹp cho mọi người vì Chúa là nguồn của chân thiện mỹ. Nhờ đó chúng ta lại trở thành lời mời gọi mọi người đến với Đức Kitô và với Thiên Chúa.
3.4. Khi chúng ta nhìn vào vị Mục Tử nhân lành rong ruổi trên khắp nẻo đường đời để dẫn tất cả chiên lạc về một đàn chiên duy nhất bằng nỗ lực rao giảng Tin Mừng, thứ tha tội lỗi, chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ, cho kẻ đói được no lòng, cho cả kẻ chết sống lại, thì chúng ta mới thấy ơn gọi của mình không còn kìm giữ ta quanh quẩn bên nhà thờ, nhà xứ, tu viện với những nghi lễ phụng tự dù trang nghiêm nhưng vẫn chỉ là một phần trong đời sống toàn diện, với những bài giáo lý khô khan, bài đàn bài hát Thánh ca tuy cần thiết nhưng vẫn chưa đáp ứng được những nhu cầu cao cả của con người, với những trò vui của một số hội đoàn Công giáo tiến hành lập đi lập lại khiến giới trẻ buồn chán.
Tâm hồn chúng ta sẽ mở rộng cho biết bao con người trong cộng đồng xã hội không cùng tôn giáo. Trí khôn ta sẽ vươn xa đến những chân trời mới của các khoa Thần học, Kinh Thánh và cả khoa học tự nhiên, xã hội nhân văn để thấy cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong mọi sự. Bàn chân ta mới dám đặt lên những vùng đất xa lạ, cằn cỗi như Ngôi Lời đã bỏ trời xuống thế để chia sẻ cho mọi người ơn lành của Chúa Cha. Lúc ấy mỗi linh mục tu sĩ hay tín hữu giáo dân sẽ thật sự là những chứng nhân của Chúa Giêsu trong mọi lĩnh vực của đời sống để thu hút tất cả về cho Người. Lúc ấy chúng ta mới thấy ơn gọi và đời tu của mình đẹp đẽ và hào hùng vì chúng ta dám xả thân giúp đời, hành hiệp giang hồ, hàng ma phục linh như Đức Giêsu Phục Sinh. Lúc ấy ta mới thật sự trở thành “ánh sáng muôn dân để đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất” (Cv 13,47).
Lời kết
Khi đó ta sẽ thấy mình tự hào đứng vào đoàn người thật đông đảo sau lưng Đấng Mục Tử nhân lành vì đã “trải qua cơn thử thách lớn lao, giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,9.14). Khi đó ta thật sự vui sướng vì ơn Chúa gọi ta và ta trở thành lời gọi cho mọi người.