25/12/2024

Ngày thứ hai Đức Thánh Cha viếng thăm Cuba

Thứ tư 28-3-2012 là ngày cuối cùng trong chuyến Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viếng thăm Cuba 2 ngày. Đức Thánh Cha đã chỉ có một sinh hoạt duy nhất là chủ sự Thánh lễ tại Quảng trường Cách Mạng trong thủ đô La Habana, trước khi từ giã Cuba vào ban chiều để về Rôma.

Ngày thứ hai Đức Thánh Cha viếng thăm Cuba
 


Thứ tư 28-3-2012 là ngày cuối cùng trong chuyến Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viếng thăm Cuba 2 ngày. Đức Thánh Cha đã chỉ có một sinh hoạt duy nhất là chủ sự Thánh lễ tại Quảng trường Cách Mạng trong thủ đô La Habana, trước khi từ giã Cuba vào ban chiều để về Rôma.

Nhưng trước hết, xin kính mời quý vị và các bạn cùng chúng tôi theo dõi các sinh hoạt của Đức Thánh Cha chiều thứ ba 27-3-2012. Sau khi kính viếng Đền thánh Đức Bà Bác Ái Mỏ Đồng ở Santiago de Cuba, Đức Thánh Cha đã đi xe ra phi trường quốc tế cách đó 32 cây số để lấy máy bay đi thủ đô La Habana. Máy bay đã cất cánh lúc 10 giờ 30 sáng và tới Phi trường Quốc tế José Martí của thủ đô La Habana sau 1 giờ rưỡi bay. Đức Thánh Cha đã được Đức Hồng y Ortega y Alamino tiếp đón tận chân thang máy bay, và Đức Hồng Y giới thiệu với Đức Thánh Cha các giới chức chính quyền địa phương. Hiện diện tại phi trường có mấy trăm trẻ em và các ca đoàn hát chào mừng Đức Thánh Cha.

Thành phố La Habana do ông Diego Velazquez thành lập năm 1514. Với biến cố người Tây Ban Nha chinh phục Mêhicô và Peru, La Habana trở thành hải cảng quan trọng nhất Mỹ châu, vì có các tàu hàng chở bạc về Tây Ban Nha. Năm 1555, thành phố bị người Pháp đảo Corse cướp phá, và năm 1762 bị người Anh chiếm đóng 11 tháng. Sau đó, thành phố được củng cố đứng hàng đầu bên Tân Thế Giới. Từ năm 1607, La Habana là thủ đô của Cuba; và với gần 4 triệu dân cư, hiện nay nó là thành phố lớn nhất vùng quần đảo Caribê. La Habana cũng là trung tâm của ngành kỹ nghệ luyện kim, làm thuốc xì gà, lọc dầu hoả… và có các tàu đánh cá lớn. Thành phố bị ô nhiễm trầm trọng, không có hệ thống thiêu huỷ rác, thiếu nước trong lành, và phân nửa nhà cửa rơi vào tình trạng rất tồi tệ, khiến hằng năm có 300 dinh thự bị sập.

Khu phố nổi tiếng nhất là khu phố cổ có các nhà xây thời thuộc địa, và từ năm 1982 nó được tổ chức UNESCO của Liên Hiệp Quốc cho vào danh sách gia tài của nhân loại. Tại đây có các lâu đài El Moro và La Cabanha, các dinh thự kỷ niệm Cách Mạng, bao gồm cả viện bảo tàng và đài tưởng niệm José Martí, cũng như các hàng quán và nơi sinh hoạt đêm với nhạc Phi châu Cuba thuộc thập niêm 1950, Toà Thị chính và Viện Bảo tàng Ernest Hemingway, nơi nhà văn Mỹ đã sống và sáng tác tiểu thuyết trong 20 năm.

Trong số các nhà thờ nổi tiếng trong thủ đô La Habana có Nhà thờ Đức Bà Mân Côi xây năm 1720; Nhà nguyện Templete xây năm 1828; Nhà thờ và Tu viện Thánh Phanxicô thành Assisi xây năm 1608, hiện biến thành phòng hoà nhạc và viện bảo tàng; Nhà thờ và Tu viện Thánh nữ Clara, nhưng từ năm 1920 không còn là tu viện nữa; Nhà thờ Giáo xứ Chúa Thánh Thần xây năm 1640: đây là nhà thờ cổ xưa nhất trong thủ đô; Nhà thờ và Tu viện Đức Bà Mercede xây năm 1755; và Nhà thờ thánh Thiên Thần Bản Mệnh.

Tổng Giáo phận San Cristobal La Habana được thành lập năm 1787, rộng hơn 7.500 cây số vuông, có gần 4 triệu dân trong đó có hơn 2.800.000 tín hữu Công giáo, bao gồm 107 giáo xứ với 44 linh mục triều và 101 linh mục dòng, 135 tu huynh, 265 nữ tu, 15 đại chủng sinh và 24 phó tế vinh viễn. Giáo Hội điều hành 2 học viện giáo dục và 6 cơ sở bác ái xã hội.

Từ phi trường quốc tế La Habana, Đức Thánh Cha đã đi xe về Toà Sứ thần Toà Thánh, cách đó 18 cây số, để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi đến viếng thăm xã giao Chủ tịch Raul Castro tại Dinh Cách Mạng. Ban đầu dinh thự này là trụ sở của Toà án Tối cao và Tổng Biện lý. Từ năm 1965 nó là trụ sở của Hội đồng Nhà nước, với văn phòng của Chủ tịch Nước, Hội đồng Bộ trưởng và Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Cuba. Ngoài ra còn có một rạp hát, một phòng chiếu phim và một nhà thương.

Xe chở Đức Thánh Cha đã đến Dinh Cách Mạng lúc 17 giờ 30 chiều thứ ba. Chủ tịch Raul Castro đã ra tiếp đón Đức Thánh Cha và cùng ngài lên lầu một, nơi có phòng tiếp tân. 

Chủ tịch Raul Modesto Castro Ruz sinh năm 1931. Hồi còn trẻ ông đã tham gia nhiều cuộc biểu tình phản đối Tổng thống Fulgenzio Batista. Năm 1953, ông đã cùng anh là Fidel Castro tổ chức một vụ tấn công vũ trang trại lính Moncada ở Santiago di Cuba. Có nhiều người chết và hai anh em bị bắt và bị kết án tù. Sau khi được ân xá, ông Raul đã tham gia cuộc chiến đấu giải phóng Cuba do bào huynh Fidel Castro lãnh đạo năm 1956. Cách mạng chiến thắng khiến cho Tổng thống Batista phải bỏ trốn và ông Fidel Castro lên nắm quyền cai trị Cuba. Ông Raul đã từng là bộ trưởng các Lực lượng Vũ trang Cách mạng, Phó Bí thư Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Cuba, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, và từ năm 2006 từ từ thay thế ông Fidel Castro, rồi lên làm Chủ tịch năm 2008.

Sau khi hai bên đã giới thiệu các nhân vật của hai phái đoàn, Đức Thánh Cha và Chủ tich Castro đã hội kiến riêng trong vòng 45 phút. Trong cuộc họp báo sau đó Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Toà Thánh, cho biết cuộc hội kiến đã diễn ra trong bầu khí rất thanh thản và thân tình. Tuy không ai biết chi tiết nội dung cuộc nói chuyện nhưng Cha Lombardi nói hai bên đã đề cập tới điều kiện sống hiện nay của nhân dân Cuba và tình hình trong nước. Đức Thánh Cha đã bày tỏ ước mong Giáo Hội có thể tham gia vào cuộc sống xã hội một cách tích cực hơn, cũng như diễn tả lòng tin một cách tràn đầy hơn. Đức Thánh Cha cũng yêu cầu Chủ tịch Raul Castro tuyên bố Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày lễ nghỉ trên toàn quốc, vì nó là ngày nền tảng trong truyền thống tôn giáo của người dân Cuba, y như cách đây 14 năm Đức Gioan Phaolô II đã xin Chủ tich Fidel Castro tuyên bố Lễ Giáng Sinh là lễ nghỉ toàn quốc và đã được chấp thuận ngay trong năm đó.

Theo sau cuộc đàm đạo lâu với Chủ tịch Raul Castro, Đức Thánh Cha gặp gia đình ông, chụp hình lưu niệm, rồi hai bên trao đổi quà tặng.

Trong khi Đức Thánh Cha đàm đạo với Chủ tịch Nước, Đức Hồng y Bertone, Quốc vụ khanh Toà Thánh, cũng gặp gỡ Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng cùng với các cộng sự viên.

Sau cuộc gặp gỡ Đức Thánh Cha đã cùng Chủ tịch Raul Castro ra chào đại điện giới truyền thông ở bên ngoài Dinh, rồi Đức Thánh Cha lên xe về Toà Sứ thần Toà Thánh cách đó 4 cây số đễ dùng bữa tối và qua đêm tại đây.

Trong cuộc họp báo ban chiều, Cha Lombardi cũng tiết lộ một chi tiết liên quan tới Thánh lễ riêng Đức Thánh Cha dâng trong Nhà nguyện Chủng viện Santiago sáng thứ ba. Tham dự Thánh lễ có khoảng 10 nữ tu Thứa sai Bác ái của Mẹ Terexa Calcutta, trong đó có Nt. Teresa Kerketta người Ấn Độ. Theo thói quen của các nữ tu Thừa sai Bác ái, khi khấn trọng các chị chọn một linh mục để hằng ngày cầu nguyện cách riếng cho vị ấy. Cách đây 20 năm, khi vĩnh khấn, chị Kerketta cũng đã chọn cầu nguyện cho một linh mục; vị linh mục đó là Đức Hồng y Ratzinger. Sau Thánh lễ, Đức Tổng Giám mục Santiago đã giới thiệu chị với Đức Thánh Cha và chị đã choàng một vòng hoa lên cổ ngài để tỏ lòng quý mến. Đức Thánh Cha đã rất cảm động gặp người mỗi ngày đã liên lỉ cầu nguyện cho ngài trong suốt 20 năm qua. Ngoài ra, có một ca đoàn gồm 20 thiếu nhi đã hát mừng Đức Thánh Cha và chụp hình lưu niệm với ngài khi Đức Thánh Cha rời chủng viện.

Lúc sau 8 giờ sáng thứ tư 28-3-2012, Đức Thánh Cha đã đi xe bọc kính rời Toà Sứ thần đến Quảng trường Cách Mạng La Habana, cách đó 4 cây số, để chủ sự thánh lễ cho tín hữu.

Quảng trường Cách Mạng mang tên José Martín là nơi biểu tượng của Cuba, rất rộng có thể chứa tới 600.000 người, và là nơi đã diễn ra biết bao nhiêu cuộc tụ họp của người dân thủ đô. Ông José Martín, sinh năm 1853, là một nhà báo kiêm thi sĩ, và là người hoạt động chống lại sự chiếm đóng Cuba của Tây Ban Nha.

Ông bị bắt, ban đầu bị đầy bên Tây Ban Nha rồi bên Mêhicô. Ông đã sống tại Mỹ châu Latinh, Paris và New York trước khi trở về Cuba, và bị giết trong cuộc giao tranh với người Tây Ban Nha năm 1895. Khi còn sống, ông đã rất nổi tiếng vì các bài khảo luận chính trị, và ngày nay ông được coi là một trong các người khởi đầu trường phái thi ca tân tiến của Mỹ châu Latinh.

Ông Antonio Tejero, đặc trách giới trẻ của Tổng Giáo phận La Habana, cho biết tối thứ ba có hàng chục ngàn người trẻ đã tham dự buổi canh thức cầu nguyện suốt đêm trong nhà thờ chính toà, rồi từ sáng sớm đã rước ảnh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng đi ngang qua các giáo xứ, cùng nhập đoàn với giáo dân đi bộ tiến về Quảng trường Cách Mạng để tham dự Thánh lễ do Đức Thánh Cha chủ sự.

Xe bọc kính đã chở Đức Thánh Cha đi một vòng quảng trường để ngài chào biển tín hữu đông nghẹt khắp nơi khoảng gần 1 triệu người.

Thánh lễ đã bắt đầu lúc 9 giờ sáng. Cùng đồng tế Thánh lễ với Đức Thánh Cha có các Hồng y và Giám mục Cuba, đoàn tuỳ tùng, các Hồng y Giám mục khách và hàng trăm linh mục. Bàn thờ dựng trên khán đài cao có bao lơn màu xanh. Tượng Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng mặc áo thêu màu trắng được đặt phía bên trái bàn thờ. Phần thánh ca do một ban nhạc và mấy trăm ca viên mặc đồng phục màu tím đảm trách.

Giảng trong Thánh lễ Đức Thánh Cha đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc. Ngài nêu bật lòng can đảm của 3 thiếu niên trong sách Đaniel, thà chết chứ không phản bội đức tin và bất trung với Thiên Chúa, cũng như lời Chúa Giêsu mời gọi sống trong chân lý để được thực sự tư do. 

Đức Thánh Cha nói: Trong Bài đọc 1 vừa nghe, 3 người trẻ bị vua Babilonia bách hại thà bị thiêu đốt trong lửa hơn là phản bội lương tâm và đức tin của họ. Họ tìm ra sức mạnh để “ca ngợi, vinh danh và chúc tụng Thiên Chúa” với xác tín rằng Chúa của vũ trụ và lịch sử không bỏ rơi họ cho cái chết và cho hư không. Thật thế, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con cái Người, và không bao giờ quên họ. Người ở bên trên chúng ta, và có khả năng cứu thoát chúng ta với quyền năng của Người. Đồng thời Thiên Chúa cũng gần gũi dân Người và qua Con của Người là Đức Giêsu Kitô Người muốn ở giữa chúng ta.

Trong Phúc Âm Đức Giêsu tự mạc khải như là Con Thiên Chúa Cha, Đấng Cứu Thế, Người duy nhất có thể chỉ cho thấy chân lý và trao ban sự thật đích thực. Giáo huấn của Người khơi dậy sự kháng cự và lo âu giữa những người nói chuyện với Người. Người tố cáo họ muốn tìm cái chết của Người, nhưng khuyến khích họ tin và ở lại trong Lời Người để hiểu biết sự thật.

Thật thế, sự thật là một khát vọng của con người và việc tìm kiếm nó luôn luôn giả thiết việc tập tành tự do đích thực. Nhưng nhiều người thích các lối tắt để tránh nhiệm vụ ấy. Một vài người như quan Philatô, cười nhạo khả năng hiểu biết sự thật (x. Ga 18,38) bằng cách tuyên bố con người không có khả năng đạt tới nó, hay từ chối rằng có một sự thật cho tất cả mọi người. Thái độ này cũng như trường hợp của khuynh hướng hoài nghi và chủ trương tương đối thay đổi con tim của họ, khiến cho họ trở thành lạnh nhạt, lảo đảo, xa cách các người khác và khép kín co cụm trong chính mình. 

Tiếp tục bài giảng, Đức Thánh Cha nói: Đàng khác, cũng có những người giải thích sai việc tìm kiếm chân lý, dẫn đưa họ tới chỗ vô lý và cuồng tín, vì thế họ khép kín trong “sự thật của họ” và tìm áp đặt nó trên người khác. Họ như những người vụ luật lệ, mù quáng khi thấy Đức Giêsu bị đánh đập chảy máu, thì diên loan kêu lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (x. Ga 19,6). Thật ra, ai hành động một cách vô lý, thì không thể là môn đệ Đức Giêsu. Đức tin và lý trí cần thiết và bổ túc cho nhau trong việc kiếm tìm chân lý. Thiên Chúa đã dựng nên con người với một ơn gọi bẩm sinh tin vào chân lý và vì thế Người ban cho con người lý trí. Mọi người đều phải dò xét sự thật và lựa chọn nó khi tìm ra nó, cả khi có phải đương đầu với các hy sinh đi nữa. 

Đức Thánh Cha nói thêm về sự thật như sau: Ngoài ra, sự thật về con người là một giả thiết không thể tránh né được để đạt đến sự tự do, bởi vì trong nó chúng ta khám phá ra các nền tảng của một luân lý đạo đức, mà tất mọi người đều có thể đối chiếu, và nó chứa đựng các công thức rõ ràng, chính xác liên quan tới sự sống và cái chết, các nhiệm vụ và các bổn phận, hôn nhân, gia đình, và xã hội, nói cho cùng liên quan tới phẩm giá bất khả xâm phạm của con người. Gia tài luân lý đạo đức ấy là điều có thể làm xích lai gần nhau mọi nền văn hoá, các dân tộc và các tôn giáo, các chính quyền và các công dân, các công dân với nhau và các người tin nơi Chúa Kitô và những kẻ không tin nơi Người.

Khi nêu cao các giá trị nâng đỡ luân lý đạo đức, Kitô giáo không áp đặt, nhưng đề nghị lời Chúa Kitô mời gọi hiểu biết sự thật, khiến cho con người được tự do. Tín hữu được mời gọi cống hiến kho tàng đó cho các người đồng thời như Chúa đã làm, cả khi có cảm thấy trước sự khước từ và Thập Giá đi nữa.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài giảng: Anh chị em thân mến, đừng ngần ngại theo Chúa Giêsu Kitô. Nơi Người chúng ta tìm ra sự thật về Thiên Chúa và về con người. Người giúp chúng ta đánh bại các ích kỷ của chúng ta, ra khỏi các tham vọng và chiến thắng điều áp bức chúng ta. Ai làm điều ác, ai phạm tội, thì làm nô lệ của tội lỗi, và sẽ không bao giờ đạt sự tự do (x. Ga 8,34). Chỉ khi khước từ thú hận và con tim chai đứng mù loà của mình, chúng ta mới tự do, và một cuộc sống mới sẽ nảy mầm trong chúng ta.

Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Nơi Người chúng ta tìm thấy sự tự do tràn đầy và ánh sáng giúp hiểu thực tại một cách sâu xa và biến đổi nó với sức mạnh canh tân của tình yêu thương. Giáo Hội sống để làm cho người khác tham dự vào điều duy nhất Giáo Hội có: đó là Chúa Kitô, niềm hy vọng vinh quang (x. Cl 1,27). Để có thể chu toàn nhiệm vụ ấy, Giáo Hôi phải dựa trên sự tự do tôn giáo nòng cốt, bao gồm việc có thể loan báo và cử hành công khai đức tin, chuyển tiếp cho người khác sứ điệp tình yêu hoà giải và hoà bình, mà Chúa Giêsu đem đếm cho thế giới. 

Đức Thánh Cha nhận định về tình hình tại Cuba hiên nay: Cần thừa nhận với niềm vui rằng tại Cuba đã có nhiều bước tiến được làm, để Giáo Hội chu toàn sứ mệnh không thể tránh né được của mình là công khai loan báo đức tin. Tuy nhiên, cần tiếp tục, và tôi muốn khích lệ chính quyền quốc gia củng cố những gì đã đạt được và tiếp tục trên con đường phục vụ thiện ích chung của toàn xã hội Cuba.

Quyền tự do tôn giáo trong chiều kích cá nhân cũng như trong chiều kích cộng đoàn biểu lô sự hiệp nhất của bản vị con người, vừa là công dân vừa là tín hữu. Cũng là điều hợp pháp việc các tín hữu góp phần xây dựng xã hội. Việc củng cố nó khiến cho sự sống chung được vững chãi, dưỡng nuôi hy vọng vào một thế giới tốt lành hơn, tạo ra các điều kiện thuận lợi cho hoà bình và phát triển hoà hợp, đồng thời thiết lập các nền móng vững chãi bảo dảm các quyền của các thế hệ tương lai.

Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng như sau: Khi Giáo Hội nêu bật quyền tự do tôn giáo, Giáo Hội không đòi hỏi đặc ân nào, nhưng chỉ yêu sách trung thành với sứ mệnh, mà Đấng sáng lập là Chúa Kitô đã giao phó cho mình, vì ý thức rằng nơi đâu có Chúa Kitô hiện diện, thì ở đó con người lớn lên trong nhân bản và tìm thấy sự vững vàng của nó. Chính vì thế, Giáo Hội tìm cống hiến chứng tá đó trong việc rao giảng và dạy dỗ trong giáo lý cũng như trong các mội trường đào tạo và đại học. Hy vọng rằng sẽ mau đến lúc Giáo Hội có thể đem các lợi ích sứ mệnh của mình vào trong các lĩnh vực khác nhau của sự hiểu biết. Thí dụ điển hình là Linh mục Felex Varela, nhà giáo dục, bậc thầy và là người con ưu tú của thành phố La Habana này, mà lịch sử Cuba coi như người đầu tiên đã dậy cho người dân biết suy tư, và đã biến đổi xã hội. Cuba và thế giới cần có các thay đổi, nhưng sẽ chỉ có thay đổi, nếu mỗi người có thể ở trong điều kiện tự hỏi về sự thật, và quyết định bước theo con đường của tình yêu, gieo vãi hoà giải và tình huynh đệ.

Đức Thánh Cha xin Mẹ Maria Rất Thánh cho mọi người trở thành chứng nhân của lòng bác ái, luôn đáp trả lại sự ác bằng sự thiện.

Trong khi Đức Thánh Cha cho một số tín hữu rước lễ hàng trăm linh mục, các phó tế và hàng ngàn thừa tác viên Thánh Thể đã phân phát Mình Thánh Chúa cho giáo dân.

Sau khi chào từ biệt các tín hữu Đức Thánh Cha đã lên xe bọc kính trở về Toà Sứ thần Toà Thánh để dùng bữa trưa với đoàn tuỳ tùng và nghỉ ngơi trước khi ra phi trường lấy máy bay về Rôma.