Sức mạnh của niềm tin và lòng hy vọng Kitô
Sức mạnh của niềm tin và lòng hy vọng Kitô
Phỏng vấn Giáo sư Eugenio Borgna, chuyên viên phân tâm học kiêm nhà văn
Từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tinh tế tài chính trên thế giới hồi năm 2008 tới nay, đã có rất nhiều ngân hàng, hãng xưởng kỹ nghệ bị vỡ nợ, phải đóng cửa, và sa thải hàng chục ngàn nhân viên. Cảnh thất nghiệp và cuộc sống khó khăn đã gây ra nhiều thảm cảnh thương tâm. Tại Italia đã có một vài người cha gia đình thất nghiệp bị rơi vào tình trạng trầm cảm vì tủi nhục, đến chỗ quẫn trí, điên loạn, nên giết vợ giết con và tự tử sau đó.
Nhiều người khác chưa rơi vào cảnh thương tâm như thế, nhưng họ cảm thấy đời mình hoàn toàn thất bại và có cái nhìn rất bi quan yếm thế. Nhiều người khác nữa chán nản tuyệt vọng đến độ tìm các thú vui quên lãng và trở thành nạn nhân của cảnh nghiện ngập ma tuý, rượu chè, cờ bạc gây thêm khổ đau cho vợ con và người thân. Đáng thương nhất là tình trạng tuyệt vọng của giới trẻ. Một nước như Tây Ban Nha chẳng hạn nạn thất nghiệp nói chung đã lên tới hơn 21%, trong khi số người trẻ không có công ăn việc làm lên tới hơn 44%. Theo Giáo sư Eugenio Borgna, chuyên viên phân tâm học và là nhà văn, cho dù có phải sống trong tình trạng khủng hoảng nặng nề tới đâu đi nữa, con người vẫn có bổn phận phải hy vọng.
Sau đây, chúng tôi xin gửi tới quý vị và các bạn bài phỏng vấn giáo sư về bổn phận hy vọng này. Giáo sư Eugenio Borgna năm nay 81 tuổi, nguyên bác sĩ trưởng bệnh tâm thần tại nhà thương lớn tỉnh Novara, tây bắc Iatalia, và hiện nay là giảng viên tự do tại nhà thương bệnh thần kinh và tâm thần tại Đại học Milano. Giáo sư chuyên nghiên cứu về bệnh tâm thần trong lĩnh vực nhà thương và hiện tượng học, bệnh tâm lý, thuốc chữa bệnh tâm thần và cộng đoàn bệnh tâm thần, cũng như khoa tri thức luận và phương pháp luận trong lĩnh vực tâm thần. Trong số các sách mới nhất của giáo sư có các cuốn như: “Sự chờ đợi và niềm hy vọng”, “Như trong một tấm gương một cách mờ tối”, “Tại những nơi mất hút của sự điên loạn”, “Các xúc cảm bị thương” và “Sự cô đơn của linh hồn”. Theo giáo sư, chỉ có niềm tin mới trao ban sức mạnh cho con người trong những giai đoạn gặp khủng hoảng.
Hỏi: Thưa giáo sư, trong tình hình khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội hiện nay, giáo sư có thấy các khó khăn nội tâm song song với cuộc khủng hoảng gia tăng tại Italia hiện nay hay không?
Đáp: Chắc chắn là có rồi. Khi người ta phải đối đầu với các khó khăn liên quan tới chính khả thể nuôi nấng và trao ban niềm hy vọng cho con cái mình, thì lĩnh vực nội tâm cũng bị tấn kích chứ. Nếu nạn thất nghiệp lan tràn khiến cho các đám đông không có công ăn việc làm, thì cuộc khủng hoảng tâm lý và tinh thần cũng gia tăng. Tuy người ta không sờ mó được nó, nhưng nó len lỏi vào tâm trí và các ngõ ngách của nội tâm con người và tạo ra bệnh trầm cảm. Tuy nhiên, nói chung, người ta chỉ đề cập tới các thất bại kinh tế và tài chính, mà lơ là, bỏ qua các âm hưởng nặng nề của chúng trên nội tâm những nạn nhân của các thất bại đó; và chúng có thể thê thảm hơn các thất bại bề ngoài rất nhiều. Lý đo là vì các khiếm khuyết hay thiếu hụt kinh tế có thể được vượt thắng với các điều chỉnh công cộng hay các can thiệp nâng đỡ, và nếu cấp bách hơn nữa thì còn có sự liên đới, có các tổ chức bác ái Caritas. Nhưng tìm sửa chữa tình trạng của người cảm thấy họ thất bại một cách không thể cứu vãn được trong tất cả những gì họ đã theo đuổi suốt đời, thì khó hơn rất nhiều.
Hỏi: Mà cuộc khủng hoảng này lại đã xảy ra trong một thời điểm ít có niềm hy vọng. Nhiều người lại chỉ đơn thuần gán cho mình giá trị dựa trên những gì họ làm ra, hay sản xuất được, hoặc trên tiền lời kiếm được. Và như thế, khi không còn kiếm ra đồng tiền nào nữa, thì họ cảm thấy bất lực và trống rỗng, có đúng thế không thưa giáo sư?
Đáp: Có các lý tưởng cũng như các thành luỹ mạnh mẽ giúp chống lại các hậu quả của cuộc khủng hoảng này, nhưng cũng có các lý tưởng và thành luỹ bị lu mờ đi sau sự va chạm không thể chịu đựng nổi. Tôi không muốn đưa ra nấc thang giá trị nhân bản, nhưng dựa theo kinh nghiệm của tôi, thì tôi thấy không có gì có thể trao ban cho con người sức mạnh giúp kháng cự lại sự đối nghịch và nỗi khổ đau một cách hữu hiệu cho bằng niềm hy vọng Kitô.
Niềm hy vọng Kitô có thể biến đổi khổ đau, kể cả nỗi khổ đau xé lòng, trở thành một ý nghĩa. Đây là một mầu nhiệm, nhưng chắc chắn và đích thực.
Hỏi: Thưa Giáo sư Borgna, người ta nhận thấy song song với cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính gia tăng, thì máu mê mua vé số, đánh bạc trên mạng và tin vào tử vi bói toán cũng gia tăng. Giáo sư nghĩ gì về các hiện tượng này?
Đáp: Đó không phải là niềm hy vọng, mà là ảo tưởng. Thật là thê thảm, khi tìm trốn chạy sự sụp đổ của các vững chắc kinh tế và xã hội. Khi chạy trốn, người ta tìm một cái gì đó thay thế niềm hy vọng, nhưng nó cũng có thể trở thành sự tuyệt vọng, và hầu như là một hình thức của ma tuý. Thật ra, khi các an ninh và sự chắc chắn suy giảm, thì người ta chỉ có thể được cứu vớt trên một chiếc bè, trên đó tình liên đới với tha nhân trao ban ý nghĩa cho hy sinh của chúng ta; trong đó cả sự mất mát của chúng ta cũng chiếm hữu được giá trị, nếu chúng ta nghĩ rằng mình để lại cho con cái một cái gì cao quý hơn của cải vật chất.
Hỏi: Nhưng mà đó lại không phải là lỗi của chúng ta, và hơn nữa là lỗi của con cái chúng ta, là các thế hệ ít được giáo dục về niềm hy vọng hay sao? Vậy làm thế nào để vun trồng niềm hy vọng này, thưa giáo sư?
Đáp: Trước hết, tôi tin rằng có thể vun trồng niềm hy vọng, khi chúng ta tự giáo dục mình cảm nghiệm được các nỗi khổ đau của người khác như là nỗi khổ đau của chính mình; nhìn vào đôi mắt của người khác, và biết nhận ra trong cái nhìn của họ sự cô đơn hay sa mạc trống vắng. Nhưng chỉ có sự giáo dục nội tâm mới cho phép chúng ta nhìn thực tại, và phân biết cái gì là thực sự quan trọng trong cuộc sống. Chúng ta hãy xét mình, là kiểu sống Kitô xem ra cổ xưa và lỗi thời. Nhưng thật ra việc xét lại lương tâm giáo dục chúng ta nhìn vào nội tâm của chính mình vào ban chiều, sau mỗi ngày sống, để xem đã có những sai lầm nào, và như thế để nhận biết các hạn hẹp, bất toàn của mình, và xin ơn trên giúp đỡ để thay đổi lối sống. Điều này bao hàm một niềm hy vọng mới đối với ngày sống sẽ tới. Các hồi chuông báo hiệu giờ đọc Kinh Truyền Tin đã lại không phải là sự hỗ trợ cho niềm hy vọng hay sao?
Chính cử chỉ cầu nguyện mỗi sáng đưa chúng ta vào trong một ngày sống rộng mở hơn cho hành động hy vọng. Và niềm hy vọng không bao giờ chỉ là để cho chúng ta mà thôi, mà cũng là cho các người khác nữa, và cả cho những người mà chúng ta không hề quen biết, cho cả các trẻ em trong chính lúc đó đang phải lục lọi trong các đống rác ở thế giới thứ ba để mưu sinh nữa.
Hỏi: Không sống cho chính mình, mà sống cho tha nhân, là đề tài thường xuyên trong công việc của giáo sư. Việc đập vỡ cái vỏ cứng bao quanh mình tự nó đã là một phương pháp chữa lành, có phải thế không thưa giáo sư?
Đáp: Chúng ta không phải là các người du mục, mà ngay từ nguồn gốc ban đầu đã được tạo dựng để đối thoại với tha nhân. Chúng ta là các bản vị đối thoại sâu xa đến độ, một triết gia gốc Do Thái như Walter Benjamin đã viết về “một bổn phận của niềm hy vọng” đối với những người đã đánh mất hy vọng. Chúng ta có bổn phận phải duy trì sống động ánh sáng này của niềm hy vọng, nếu những người chung quanh đã lạc mất nó; bởi vì nếu chúng ta cũng tuyệt vọng, thì ánh sáng đó của niềm hy vọng sẽ mất đối với tất cả mọi người.
Hỏi: Thưa Giáo sư Borgna, trong một buổi tiếp kiến tín hữu và du khách hành hương năm châu mới đây, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã đề cập tới một “ký ức làm thành hy vọng”, về ích lợi của việc nhớ lại thiện ích, nhớ lại hạnh phúc, mà chúng ta đã nhận được trong cuộc sống giúp chúng ta hy vọng, giống như người Do Thái đã làm xưa kia khi được giải phóng khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập. Giáo sư nghĩ sao?
Đáp: Điều Đức Thánh Cha đã nói là một tiếng vọng tư tưởng của Thánh Augustinô. Thánh Augustinô đã viết rằng niềm hy vọng của chúng ta tuỳ thuộc các niềm hy vọng của quá khứ. Triết gia Gabriel Marcel đã nói rằng “niềm hy vọng là cái chết của tương lai”; trong ký ức của chúng ta đã có các kiểu hy vọng trong trạng thái hạt nhân của chúng, mà chúng ta nuôi dưỡng. Và tất cả những điều này bao gồm trong sự chú ý tới tính cách chủ thể nội tâm, mà người ta thường không biết đến, hay nó bị kiểm soát; nó liên quan tới nhu cầu sâu thẳm trở về hiểu biết chúng ta là ai, và chúng ta có gì ở bên trong chính mình.
Hỏi: Thưa Giáo sư Borgna, đứng trước cuộc khủng hoảng, trước cảnh người trẻ không có công ăn việc làm, người ta nghĩ tới biết bao nhiêu phụ nữ hoảng sợ và sẽ khước từ có một đứa con mà họ mong ước, hay họ đang mang trong lòng. Chúng ta nghĩ tới biết bao nhiêu đứa con sẽ không sinh ra. Giáo sư sẽ nói gì với các phụ nữ này?
Đáp: Tôi sẽ xin họ đừng nhượng bộ cái tính toán lạnh lùng của các con số, của các thống kê, khẳng định rằng không còn làm gì được nữa, phải đầu hàng mà thôi. Như triết gia Kirkegaard đã nói, ngày nay, cái nhảy từ lý trí tính toán lạnh lùng vào một niềm hy vọng không phải là một ảo tưởng, mà là sự rộng mở cho ý thức rằng có thể xảy ra những điều không thể thấy trước được một cách duy vật. Các bác sĩ biết rằng thông truyền cho một người bị bệnh nặng các khả thể sống còn một cách lạnh lùng, nói cho cùng là nói dối họ, khiến cho bệnh của họ trở thành nặng hơn: bởi vì con người có các tài lực và khả năng không được biết tới. Và chính sự sống cũng ở trong tình trạng không thể thấy trước được; nó lớn lao hơn tất cả các thống kê của chúng ta. Nói cho cùng, lý tính lớn nhất là biết rằng cuộc sống cao vượt hơn tất cả càc tính toán và các dự đoán của chúng ta.
(Avvenire 11-12-2011)