Chúa Nhật XXXIII TN – A: Làm chứng cho sự thật và tình yêu
Hôm nay Giáo hội Việt Nam long trọng mừng kính 117 anh hùng tử đạo đã can đảm làm chứng cho đức tin và tình yêu của Kitô giáo trong những giai đoạn khó khăn của dân tộc. Chúng ta cùng tìm hiểu những điểm cơ bản trong lời chứng của các ngài để tìm ra những hướng mới trong đời sống chứng nhân của từng người chúng ta hôm nay.
Lời mở
Hôm nay Giáo hội Việt Nam long trọng mừng kính 117 anh hùng tử đạo đã can đảm làm chứng cho đức tin và tình yêu của Kitô giáo trong những giai đoạn khó khăn của dân tộc. Tử đạo, theo gốc tiếng Hy Lạp marturion – tiếng Anh là martyr – nghĩa là người làm chứng cho Đức Kitô bằng cái chết của mình (x. Cv 22,20). Trong ít phút này, chúng ta tìm hiểu những điểm cơ bản trong lời chứng của các thánh tử đạo Việt
1. Những nhân chứng lịch sử
1.1. Giai đoạn khó khăn
Chúng ta có thể nói rằng các thánh tử đạo ở Việt
Chúng ta biết rằng, năm 1533, một thừa sai nước ngoài tên là Inikhu đã lén truyền đạo ở làng Ninh Cường và làng Trà Lũ, thuộc tỉnh Nam Định bây giờ, nhưng sử sách không nói gì đến kết quả truyền đạo của vị thừa sai này (x. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, q.33, tờ 5-6). Sau đó, giai đoạn mở đạo chính thức bắt đầu từ năm 1615-1665 với các vị thừa sai dòng Tên đến truyền đạo cho cả hai miền Nam Bắc. Trong vòng 50 năm đó có khoảng 100 ngàn người đã tin theo Đức Kitô, sống theo sự thật mà Thiên Chúa đã chia sẻ cho nhân loại qua Người Con của Ngài (x. Niên giám Giáo hội Công giáo Việt Nam, 2005, NXB Tôn Giáo, tr.187-188).
1.2. Sự thật đó là gì?
Là Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, tôn trọng sự sống của mọi người. Thời đó, dân tộc ta sống dưới chế độ quân chủ chuyên chế, theo lý thuyết của Khổng – Mạnh, vua chúa chủ trương bế quan toả cảng, không liên lạc với các nước khác. Các vị tử đạo đã cố gắng nêu gương sáng cho con cháu và dạy mọi người tinh thần dân chủ: lấy dân làm gốc vì tất cả mọi người đều là anh em với nhau trong đại gia đình Thiên Chúa. Chính gương sống của các ngài đã gây nên những căng thẳng, vì một khi giới thiệu sự thật dân chủ như thế, chính quyền không thể chấp nhận. Theo quan điểm Nho giáo, vua là thiên tử, là con trời, có toàn quyền sinh sát trong tay. Vua bắt thần dân chết mà không chết là bất trung. Trong khi các tín hữu Công giáo rao giảng rằng: Đức Giêsu mới là Thiên Tử đích thực, là con của Vua Trời, đã chết cho muôn loài nên các bậc anh hùng tổ tiên sẵn sàng làm chứng cho tình yêu thương của Thiên Chúa và chết cho người khác để kêu gọi mọi người yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.
1.3. Cuộc sống tràn đầy niềm tin và hy vọng
Các tín hữu thời đó nêu cao gương sáng gia đình gồm một vợ một chồng trong xã hội đang cổ vũ chế độ đa thê, các ngài nêu cao thái độ bình đẳng nam nữ trong một xã hội trọng nam khinh nữ, các ngài giới thiệu khoa học kỹ thuật trong một đất nước lạc hậu bằng đời sống tràn đầy hạnh phúc, niềm vui và niềm tin hết sức cụ thể của mình. Đất nước chúng ta cho đến đầu thế kỷ XX vẫn còn đóng kín với khoa học kỹ thuật, nhưng các vị thừa sai Tây phương đã truyền giảng khoa học thường thức cho tín hữu Công giáo để họ không tắm rửa bằng nước ao tù mà phải lọc bằng than, cát, sỏi và chỉ uống khi được nấu chín. Nhờ thế, người Công giáo ai cũng đẹp đẽ, khoẻ mạnh… trong khi đó, cho đến năm 1939, cứ 10 trẻ được sinh ra thì có 7 trẻ chết yểu; 10 sản phụ thì có 5 người bị chết vì hậu sản.
Trong suốt 20 thế kỷ, đất nước ta lấy chữ Hán của Trung Hoa làm chữ chính thức của dân tộc. Sau đó, một số nhà Nho ái quốc mới dùng chữ Nôm nhưng vẫn là gốc chữ Trung Hoa, thêm thắt vài nét để làm thành chữ của người phương
2. Làm chứng bằng cái chết và đời sống
2.1. Nhân chứng cho sự thật
Chính vì ý hướng đưa ánh sáng Tin Mừng vào nền văn hoá Việt
Cuộc bách hại xảy ra rất nặng nề, nhất là từ khi quân Pháp bắn phá Đà Nẵng năm 1847 và nhà nước quân chủ Việt Nam phải ký hoà ước Nhâm Tuất năm 1862 nhường 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp. Số tín hữu chết nhiều nhất vào các triều vua: Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1847-1883). Các nhà Nho vu khống người tín hữu Công giáo cộng tác với quân Pháp để phản bội dân tộc, chống lại giới cầm quyền và nêu khẩu hiệu “Bình Tây sát Tả”. Sau khi Pháp ký hoà ước Quý Mùi năm 1883, người Công giáo mới chính thức được tự do giữ đạo. Nhưng phong trào Văn Thân vẫn tiếp tục tàn sát người Công giáo cho đến khi những nhà Nho ái quốc như cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, Lương Văn Can khởi xướng lên phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, phong trào Đông Du, hô hào hãy sống theo tinh thần của người Công giáo thì cuộc bách hại mới ngừng hẳn vào năm 1885.
Quần chúng đã hưởng ứng lời kêu gọi của các cụ: không tàn sát người Công giáo, những nhà Nho bắt đầu cắt bỏ búi tóc củ hành, cắt móng tay dài, mặc Âu phục, học chữ Quốc Ngữ, sống một vợ một chồng, bình đẳng nam nữ, ý thức dân chủ… Tất cả những giá trị thật sự đó bắt nguồn từ người Công giáo mà các vị anh hùng của chúng ta đã phải đổ biết bao máu đào để minh chứng sự thật này.
2.2. Con đường chân lý và tình yêu vẫn mở
Bây giờ dân tộc Việt
Chúng ta cũng được thánh Tông đồ nhắc nhở: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, dù là sự chết hay sự sống, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào hay bất cứ loài thọ tạo nào” (Rm 8,38-39). Không có gì có thể tách biệt chúng ta vì chúng ta có sức mạnh và tình yêu của Chúa Thánh Thần để chúng ta luôn gắn bó với Đức Kitô trong việc làm chứng cho dân tộc này, cũng như giúp dân tộc ngày một phát triển tốt đẹp, đất nước ngày một hùng cường, người dân mỗi ngày cảm nhận được hạnh phúc trong niềm tin vào sự thật và tình yêu mà các thánh tử đạo đã làm chứng.
Kết luận
Trong tinh thần đó, chúng ta cảm tạ Chúa cùng với các Thánh Tử Đạo Việt Nam và xin hứa với các ngài từ nay sẽ luôn cố gắng để trở thành những chứng nhân sống động của sự thật mới mẻ và sự sống diệu kỳ của Thiên Chúa cho dân tộc Việt Nam thân yêu.