“Bà Robinson” trên đảo Hòn Khô

Bà tên thật là Trần Thị Nữ, còn có tên khác là Rô vì nhiều người gọi vui, so sánh bà với Robinson lạc giữa đảo hoang. Đảo Hòn Khô (xã Nhơn Hải, TP Quy Nhơn, Bình Định) nơi bà ở cách TP Quy Nhơn 20 hải lý, hằng năm rùa biển quý hiếm thường lên đẻ.

 “Bà Robinson” trên đảo Hòn Khô

Bà sống một mình trên đảo suốt 31 năm. Có người cho bà bị điên, có người gọi bà là bà tiên… Mặc, bà vẫn một mình cắm lá cờ Tổ quốc hằng ngày bay trên nóc đảo rồi làm bạn với sóng gió trên đảo hoang và làm “bà đỡ” cho những đàn rùa biển sinh sôi.

Bà tên thật là Trần Thị Nữ, còn có tên khác là Rô vì nhiều người gọi vui, so sánh bà với Robinson lạc giữa đảo hoang. Đảo Hòn Khô (xã Nhơn Hải, TP Quy Nhơn, Bình Định) nơi bà ở cách TP Quy Nhơn 20 hải lý, hằng năm rùa biển quý hiếm thường lên đẻ.

Duyên phận với rùa

Ngôi nhà nhỏ khép nép ẩn sâu trong vách núi, chỉ có cây bàng xanh tốt quanh Hòn Khô khô khốc với nắng và sóng, người đàn bà nằm trên võng nhìn đăm chiêu ra biển. Gió lồng lộng thổi. Đã 31 năm, cứ như thế trên đảo hoang bà sống chung với đú (cách gọi của người dân chài ở đây về loài rùa biển).

“Mỗi năm, tại khu vực này có khoảng 5-7 ổ trứng được Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản Bình Định phát hiện và khoanh vùng bảo vệ. Bà Rô là người đã tư vấn cho chúng tôi rất nhiều về đặc tính của rùa biển. Bà còn tham gia bảo vệ trứng, san hô và rong mơ ở đảo, giữ môi trường sinh thái biển và vệ sinh đảo rất sạch sẽ, tạo điều kiện tốt cho rùa lên đẻ” – bà Nguyễn Hải Bình, trưởng phòng quản lý nguồn lợi và môi trường thuỷ sản Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản Bình Định, cho biết.

Dáng vóc bà vạm vỡ, thể hiện qua đôi cánh tay một thời trẻ trung ngang dọc làng chài. Bà vẫn bơi thuyền, cưỡi sóng dù đã tuổi 80. “Bả có nhà, con cháu làm ăn khá giả, không hận đời, không giận ai, vậy mà đùng một cái bả tự chèo thuyền ra đảo hoang ở một mình” – một ngư dân ở đây vẫn chưa hết ngạc nhiên về quyết định của bà Rô.

Hơn 30 năm trước, một lần chèo thuyền qua đảo hái rong biển, bà lên bãi cát ngồi nghỉ, người đàn bà có tám mặt con ấy thấy tâm hồn thư thái, yên bình như vứt bỏ được tất cả nỗi lo toan cuộc đời.

Vậy là tá túc lại, rồi bà quyết định gắn bó với hòn đảo. Bà viết lên tảng đá những vần thơ kỳ lạ, đọc Truyện Kiều vanh vách và hát bội, bài chòi bằng giọng của sóng, của biển mê hoặc lòng người, nói chuyện với bà, bà đáp lại bằng thơ.

Những ngày rằm ăn chay, bà chỉ uống nước và đã 31 năm không ăn cơm. Bà kể: “Lúc ra đảo ở chỉ đem theo bánh tráng, nước uống rồi kiếm vài con cá, con còng ăn dần rồi quen, bây giờ ăn gì cũng được nhưng không ăn được cơm”.

Đêm nằm ngủ một mình trên bãi cát không có dấu chân người, chỉ có những con còng chạy ăn vẽ nham nhở trên cát cùng tiếng chim biển lẫn trong tiếng sóng rì rào, quá đỗi bình yên, hồn bà như hoà vào biển bềnh bồng. “Vậy mà có một đêm tôi chợt giật mình khi nhìn thấy những tảng đá lớn di chuyển từ biển lên bờ, thỉnh thoảng phát ra âm thanh lạ” – bà kể. Cho đến một lần vào mùa trăng sáng, bà mới tận mắt nhìn và phát hiện đó là rùa.

Dần rồi quen, lũ rùa ban đêm rón rén bò lên, thấy bà nằm trên bãi, nó tránh bà đi tìm chỗ khác đẻ. Bà kể: “Lúc đó đâu biết, thấy nó đẻ trứng nhiều mình mừng lắm, cứ thế lấy luộc ăn thôi, ăn không hết thì bỏ lên thuyền chở về cho con cháu”. Thằng Bình, cháu ngoại của bà, khi đó mới mười mấy tuổi trong bờ ra, thấy trứng cũng kẹp chèo theo đi xăm. Cứ mùa đú đẻ thì bà cháu đi xăm tìm trứng, hết mùa thì đi bứt rong mơ, nhổ san hô về bán. Cái đảo hoang này vậy mà nguồn lợi phong phú…

Nhưng không phải ổ trứng nào cũng tìm ra, có lúc bà phát hiện những quả trứng đã nở thành con, từng đàn rùa chạy nhanh xuống biển. Vài lần bà thử đuổi theo bắt, chúng chạy nhanh hơn chân người, nghiêng mình rẽ nước, bà cũng lặn theo.

Trong rừng san hô được phủ lên những lá rong mơ, những đàn cá đủ màu sắc trú ngụ vội nép mình. Một hình ảnh hoang sơ tuyệt đẹp. Bà ngây ngất trước thế giới loài vật sống rất gần bao nhiêu năm mà bà chưa hề thấy. Lẽ nào mình lại huỷ hoại cuộc sống đang yên lành của chúng? Yên lành như mình đang sống trên đảo hoang. Vậy là bà không ăn trứng nữa, không cho cháu bà ăn và ai lên xăm trứng rùa bà đều cấm.

Giữ đảo hoang cho đú

Lúc mới đến đảo vắng dấu chân người, chỉ một mình bà, rùa thường lên đẻ. “Hình như nó xem tôi là bạn nên không ngần ngại gì, có lúc nó đang đẻ tôi thò tay lấy trứng nó vẫn cứ đẻ” – bà kể. Mỗi ổ trứng rùa khoảng 70 trứng, có khi đến cả trăm. Mỗi lần ổ rùa nở cùng lúc hàng chục con đua nhau ùa ra biển, bà thấy trong lòng rất vui.

Bà cho biết: “Cách đây 10 năm, mùa đú đẻ người đi xăm trứng đông lắm. Cuối ngày, có người vác cả bao trứng lên thuyền chở về, ít ổ trứng rùa nào có cơ hội nở. Tôi thấy xót nên cấm không một ai được bước tới khu vực đảo khai thác”.

Hằng ngày, chính bà đi hốt cát làm ổ cho rùa lên đẻ, có rác bà dọn rác, có cái gì thuộc về vật dụng của con người ngoài biển tấp vào, bà giấu đi… Cứ như thế rùa lên đẻ ở khu vực bà ở ngày càng nhiều, hàng vạn chú đú con khai sinh nơi đảo Hòn Khô xem bà như mẹ đỡ rồi rong ruổi hành trình hàng ngàn kilômet để lớn lên, tới kỳ sinh nở lại về Hòn Khô với bà.

“Cái kỳ lạ của duyên số là thằng cháu tôi cũng bỏ nghề, nó gia nhập đoàn bảo tồn rùa biển gì đó của quốc tế” – bà kể. Đứa cháu ngoại mà bà nói là Lê Thái Bình, cách đây một năm, Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) về tuyên tuyền, vận động, Bình trở thành tình nguyện viên bảo vệ rùa biển. Bình tâm sự: “Bà cấm mình lâu lắm rồi, sau này nhờ IUCN mới biết của trời cho rất quý mà mình phải giữ gìn”.

Bà không hiểu lắm về bảo tồn, chỉ thấy thương con đú nhiều đêm vẫn thường lên bè bạn với người đàn bà độc nhất trên đảo ban đêm. Cháu bà được giáo dục bài bản hơn. Bà con ở xã Nhơn Hải sống gần đảo Hòn Khô không khỏi ngỡ ngàng về sự thay đổi của hai bà cháu. Họ làm theo, không bắt đú, không hái rong, không bẻ san hô một phần vì sợ bà “chúa đảo”, một phần nhờ được sự tuyên truyền, canh giữ của đội tình nguyện viên.

Cách đây vài tháng, ngay trước mùa đú, IUCN dựng panô tuyên truyền sơn màu trắng toát phá vỡ tính hoang sơ của đảo, đú không lên đẻ. Bà đến UBND xã đề nghị đập gấp hoặc sơn lại màu nước biển, màu đảo để đú khỏi sợ.

Bây giờ ở Hòn Khô, dấu tích con người nhìn thấy đầu tiên là hình ảnh lá cờ Tổ quốc cắm trên nóc đảo. Hơn 30 năm nay, lá cờ lúc nào cũng tung bay. Hỏi thì bà chỉ cười. Bà không nói nhưng trong đôi mắt người đàn bà ấy hình ảnh thiên nhiên, biển đảo, Tổ quốc như quyện chặt.